Vùng Gandhara và các lãnh thổ lân cận nằm trên con đường tơ lụa thì rất nhộn nhịp vào thời bấy giờ, nghệ thuật trong vùng này chịu ảnh hưởng từ lối tạc tượng khổng lồ từng được ưa chuộng trong các thời kỳ cổ đại. Vảo thời kỳ này tại Gandhara nhiều tượng Phật khổng lồ đã được thực hiện, và các pho nổi tiếng nhất đã được tạc trong vùng Bamiyan (thế kỷ thứ VI và VII) thuộc lãnh thổ Afghanistan ngày nay. Tượng được tạc thẳng vào vách núi, trong số này có một bức thật nổi tiếng cao 53 m [ mà người Taliban đã đặt mìn phá tan vào năm 2001.
Ngoài ra còn có các tượng Phật nằm biểu thị sự "Tắt nghỉ lớn lao của hơi thở" hay là Đại bát niết bàn (Mahaparinirvana), các pho tượng Phật nằm như thế đã thay nhau xuất hiện khắp nơi trong các nước Phật giáo.
Tại miền Nam nước Ấn tượng ảnh của Đức Phật xuất hiện muộn hơn. Trong vùng lãnh thổ xứ Andhara nằm giữa hai con sông Godavari và Krishna, xuất hiện một trường phái nghệ thuật tạc tượng thật đặc thù (thế kỷ thứ I đến thứ III), người ta mượn địa danh của một nơi khai quật khảo cổ là Amaravati để đặt tên cho trường phái nghệ thuật này. Nghệ thuật Amaravati tạc những nhân vật có hình dáng thật thanh lịch, thân hình mềm mại và thon dài, cử chỉ rất linh động, trên các nhân vật điêu khắc thường được kết hợp lại trong những bố cục thật tinh tế.
Nghệ thuật Amaravati sau đó lại được du nhập vào Tích Lan. Các bức tượng khổng lồ ở Gal Vihara thuộc tỉnh Polonnaruva (hậu bán thế kỷ XII) trước kia được che bằng mái ngói ngày nay thì để lộ thiên, các bức tượng này có thể xem như tượng trưng cho điểm tột đỉnh của nghệ thuật Tích Lan. Sau khi nhà vua Parakramabahu đệ I (1123 - 1186) đứng ra cải tổ tôn giáo tại Tích Lan thì hòn đảo này ngay sau đó đã trở thành một trung tâm hoằng pháp thật tích cực và đã đưa Phật giáo Nguyên thủy Theravada vào các vùng Đông nam Á châu. Nhờ việc hoàng pháp đó của Tích Lan mà nền Phật giáo đặc thù của miền Nam nước Ấn đã được truyền bá đến tận các vùng đảo Célèbes (Inđônêxia). Người ta tim thấy tại đây các tượng Phật có gương mặt thật đều đặn, thân người cân đối, quấn áo cà-sa có các nếp xếp và vải áo có ánh mờ đục tạo ra từ các đường rạch thật mịn.
.
Dầu sao thì trước đó khá lâu vào triều đại của hoàng đế Ấn độ Gupta (thế kỷ thứ IV đến thứ VI), thì hệ thống các quy tắc dùng để tạc tượng Đức Phật đã được hoàn toàn thiết lập. Khoa tạo hình dựa vào tám biến cố quan trọng nhất để tạc tượng, đó là "Tám Biểu hiện Ảo giác Lớn" trong cuộc đời của Đức Phật, các biến cố ấy liên hệ ít nhiều đến các nơi hành hương như: Lâm-tì-ni (Lumbini) nơi đản sanh, Chính giác sơn (Bodhgaya) nơi quỷ Mara quấy phá, vườn Lộc Uyển (Sarnath) nơi thuyết giáo lần đầu, thành Xá-vệ (Sravasti) nơi Đức Phật biểu lộ sức mạnh siêu nhiên, Samkasya nơi Đức Phật hạ giới từ cõi trời Đao Lợi (Trayastrimsa), thành Vương-xá (Rajagriha) nơi Đức Phật khắc phục con voi điên Nalagiri i, thành Vệ-xá-li (Vaisali) i nơi này một con khỉ nhỏ đã hiến dâng mật ong, và sau hết là Câu-thi-na (Kusinagar) nơi Đức Phật nhập vào Đại bát niết bàn.
Hầu hết các nết đặc thù trên các tượng Phật thuộc triều đại Gupta đã được các trường phái mỹ thuật khắp Á châu bắt chước. Nói chung thân người của Đấng Thế Tôn đã được biến đổi dần để trở thành mềm mại và thanh thoát hơn, áo dán vào người và có nếp xếp (theo các xưởng tạc tượng ở vùng Lộc Uyển - Sarnath), hoặc vải láng ôm sát vào thân người (theo các xưởng tạc tượng ở thành Mathura), mắt thì nữa khép nữa mở, miệng đang mỉm cười phản ảnh một thể dạng tinh thần không thể mô tả ra được bằng lởi, nhưng thật sự ra thì đấy là cách luyên tập du già tác động lên hai xương gò má....
Trong các các tỉnh lỵ Ấn độ như Bihar và Bengale dưới triều đại Pala (khoảng năm 750 đến năm 1200), người ta lại thấy xuất hiện một nghệ thuật tạo hình mới để tạc tượng Đức Thích-ca Mâu-ni, tượng đội vương miệng và ăn mặc như một vị đế vương của thế tục, khái niệm này cũng được phổ biến sau đó khắp các quốc gia Phật giáo, kể cả Phật giáo Nguyên thủy Theravada và Phật giáo Đại thừa.
Các vị Giác ngộ
Trước hết là Đại thừa Phật giáo và sau đó là Tan-tra thừa (xuất hiện từ thế kỷ thứ VII), cả hai đều chủ trương tán dương bản thể của Đức Phật và rất nhiệt thành đến độ đã dồn tất cả những thuộc tính biểu hiện của đấng Thiêng liêng vào một vị Phật thuộc tầm cỡ vũ trụ, và tiếp sau đó là một vị Phật tối thượng. Có nhiều cảnh trình bày Đức Phật thuyết giảng những lời giáo huấn mật riêng cho một số nhỏ đồ đệ được tuyển chọn trước và một vài vị Bồ tát tại một số địa danh chính xác, tuy nhiên các chi tiết này vẫn còn đang được bàn thảo và chưa được công nhận một cách dứt khoát.
Dầu sao thì các cách tự biện trên đây cũng không mang lại ảnh hưởng nào hoặc rất ít trong việc biến đổi các quy tắc tượng trương các "Đấng Giác ngộ", ngoài những khác biệt nhỏ trong cách thủ ấn thì màu sắc trên thân thể đôi khi cũng cũng có thay đổi, tuy nhiên rất hiếm. Đấy là các cách tượng trưng cho chư Phật liên quan đến các thời kỳ xoay vần của vũ trụ. Đức Di-lặc mang biểu tượng của thời kỳ hoàng kim, được trình bày đang ngồi với hai chân buông thõng mà nhiều học giả Tây phương gọi sai là cách ngồi "theo kiểu Âu châu",[đấy là thế ngồi để chuẩn bị sẵn sáng đứng lên thực hiện việc hoằng pháp, (ghi chú của người dịch)]. Đối với ba mươi lăm vị Phật thuộc truyền thống Phật giáo Tây tạng thì cũng thế, mỗi vị giữ một trọng trách ngăn chận một lỗi lầm nào đó.
Đức A-di-đà là vị Phật thuộc vào phương Tây, được tôn kính khắp nơi tại các nước Đông Nam Á và được thờ phụng giống như Đức Thích-ca Mâu-ni. Trong số các ảnh tượng thường thấy nhất có một vị được tạc trong tư thế thuyết giáo, mặc áo cà-sa theo lối nhà sư. Căn cứ vào các người hầu cận cũng như quang cảnh chung quanh (các tòa nhà, vũng ao, những người đã quá cố tái sinh lần cuối cùng) người ta có thể suy đoán ra cảnh giới của vị này, đó là cõi An lạc của Tịnh độ quốc (Sukhavati). Các cõi An lạc khác thì cũng giống như trường hợp trên đây nhưng được chủ trì bởi các vị khác, chẳng hạn như Dược sư Phật (Bhaisajyaguru) tức là vị Phật lương y, hoặc bởi chính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Tại các quốc gia Đông Nam Á, vị Nhật Phật còn gọi là Tì-lô-giá-na (Vairocana) được xem là vị Phật có tầm cỡ vũ trụ, vị này mặc trên người một chiếc áo mang các biểu tượng tượng trưng cho các thành phần và các cấp bậc trong thế giới hiện tượng.
Nền Phật giáo bí truyền được hình thành vào thế kỷ thứ VII và nền Phật giáo này đã xếp vị Nhật Phật (Vairocana, Tì-lô-giá-na) qua thể dạng cao siêu nhất của vị này là Đại Nhật Phật (Mahavairocana, Đại Tì-lô-giá-na) chung với Đức Phật A-di-đà trong một hệ thống liên kết chặt chẽ, các vị Phật này được tac trong tư thế thiền định và được gọi chung là các vị Phật Tối Thắng ("Chiến thắng"). Trên đây là các biểu tượng thích ứng tùy theo trường hợp, tượng trưng cho Đức Phật xuyên qua các cách nhìn khác nhau của các Phật tử.
Phụ lục:
Các dấu thủ ấn (Mudra)
Dưới triều đại Gupta (thế kỷ thứ IV đến thứ VI), sự tương quan giữa các dấu thủ ấn (mudra, còn gọi là "dấu ấn" hay "dấu hiệu") và các biến cố xảy ra trong cuộc đời của Đức Phật, đã được thiết lập thật rõ ràng. Chẳng hạn như "cử chỉ lấy mặt đất làm chứng" (hình d) là cách chạm nhẹ tay phải vào mặt đất. Khi quỷ Mara tìm cách cám dỗ Đức Thích-ca Mâu-ni thì Ngài mượn thần Đất để làm chứng cho lời thề nguyện của Ngài là sẽ thuyết giáo cho tất cả chúng sinh phương pháp thoát khỏi vòng lôi kéo của nguyên nhân hậu quả, nhưng không phải Ngài chỉ muốn tự cứu lấy chính mình mà thôi. Cử chỉ "thiền định" (hình j) thực thi trong lúc Đức Phật đạt được Giác ngô là cách đặt hai bàn tay lên nhau, mu bàn tay phải đặt lên lòng bàn tay trái. Cử chỉ "quay bánh xe Đạo Pháp" (hình e) thực thi khi Đức Phật thuyết giáo lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển là cách chạm ngón cái và ngón trỏ của hai bàn tay tạo thành hai vòng tròn và đưa hai vòng tròn chạm nhẹ vào nhau, tay phải hướng về người nghe, tay trái hướng về mình. Dấu thủ ấn này có nhiểu biến thể tùy theo các học phái khác nhau, nhưng lý do thì chưa được biết đích xác. Từ những biến thể đó sinh ra "cử chỉ tượng trưng cho sự giảng huấn" hay "biện luận" (hình f), đó là cách để ngón cái và ngón trỏ của bàn tay mặt chạm vào nhau và bàn tay trái thì không sử dụng đến. Cử chỉ "không sợ hãi" (hình h) là cách hướng lòng bàn tay phải ra phía trước vá các ngón thẳng lên phía trên, đấy là cử chỉ đã từng giúp cho Đức Phật khắc phục con voi điên Nalagiri trong các con phố của thành Vương Xá khi Đề-bà Đạt-đa âm mưu ám hại Ngài. "Cử chỉ bố hoá" (hình c) là cách hạ tay phải thấp xuống, lòng bàn tay hướng ra phía trước và các ngón hướng xuống đất, đấy cũng là cử chỉ mà Đức Thích-ca Mâu-ni đã thực thi nơi cõi Đại lợi của Tam thập tam Thiên (ba mươi ba vị trời) trước khi giáng trần.
Hình a - Vajrahunkara mudra: tạo ra các Hình b - Prajnalingana bhinaya: cử chỉ ôm choàng
âm tiết vững chắc như kim cương.
.
Hình c - Varada mudra : bố hoá Hình d - Bhumisparsha : đối chứng đất trời
Hình e - Dharmacakra mudra: thuyết giáo, chuyển "bánh xe Đạo Pháp"
Hình f - Vitarka mudra: thuyết pháp
Hình g - Bodhyagri mudra: Giác ngộ, Trí tuệ hoàn hảo.
Hình h - Abhaya mudra : không sợ hãi (tự tại)
Hình i - Anjali mudra : hợp nhất
Hình j - Dhyana mudra: thiền định
Xem thêm 1, Xem thêm 2
|