Chlorella là một loại rong đặc biệt, còn được gọi tên khoa học là Pyrenoidosa (tên cấu trúc pyrenoid trong Chloroplast) thường sống ở vùng nước ngọt và có hàm lượng chlorophyll cao nhất (đạt 28,9 g/kg) so với bất kỳ thực vật quang hợp nào được biết đến trên trái đất.
Đặc trưng sinh học của Chlorella.
Chlorella là một loại rong đặc biệt, còn được gọi tên khoa học là Pyrenoidosa (tên cấu trúc pyrenoid trong Chloroplast) thường sống ở vùng nước ngọt và có hàm lượng chlorophyll cao nhất (đạt 28,9 g/kg) so với bất kỳ thực vật quang hợp nào được biết đến trên trái đất.
Chlorella là một loại rong đã xuất hiện cách đây 2,5 tỷ năm và là dạng sống đầu tiên có nhân thật. Các hóa thạch kỷ tiền Cambri đã chỉ ra sự tồn tại của Chlorella thời kỳ bấy giờ. Vì Chlorella là một vi sinh vật nên nó không được biết đến cho đến cuối thế kỷ 19 và tên của nó cũng bắt nguồn từ một từ gốc Hy lạp, chloros có nghĩa là màu xanh và ella có nghĩa là nhỏ bé. Chlorella nằm trong nhóm sinh vật nhân thật của giới sống ở nước ngọt dưới dạng một tế bào riêng lẻ. Kích thước của rong chỉ bằng tế bào hồng cầu người. Dưới những điều kiện sống tối ưu: nhiều ánh sáng, nước trong và không khí sạch Chlorella sinh sản với tốc độ vô cùng lớn. Quá trình sinh sản nói chung được chia thành nhiều bước: Sinh trưởng – trưởng thành – thành thục – phân chia.
Mỗi tế bào Chlorella pyrenoidosa có cấu trúc gồm nhân thật, hạt tinh bột, lục lạp và ti thể với vách tế bào chủ yếu là Xellulose. Dưới những tế bào bình thường, một tế bào Chlorella sẽ phân chia thành 4 tế bào con trong thời gian chưa đến 24 giờ. Tuổi thọ của một vòng đời tế bào Chlorella phụ thuộc vào cường độ ánh sáng mặt trời, nhiệt độ và nguồn dinh dưỡng.
Chlorella rất giàu protein, vitamin và các khoáng chất. Các protein của loài rong này có chứa tất cả các amino acid cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của người và động vật. Rất nhiều vitamin có trong thành của Chlorella pyrenoidosa như: Vitamin C, tiền vitamin A (b caroten), riboflavin (B2), pyridoxine (B6), niacin (vitamin PP), axit panthothenic (vitamin B3), axit folic (vitamin B9), vitamin B12, biotin (vitamin H), choline, vitamin K, axit lipoic và inositol. Các nguyên tố khoáng ở Chlorella pyrenoidosa gồm có: Photpho, canxi, Kẽm, iod, Magie, sắt và đồng.
Ngoài hàm lượng cao các vitamin, amino axit, peptit, protein, đường và axit nucleic, pyrenoidosa có chứa một chất tan trong nước được gọi là yếu tố sinh trưởng Chlorella (CFG). CFG chiếm khoảng 5 % trọng lượng khô của Chlorella pyrenoidosa, là một hợp chất gồm các amino axit, protein và axit nucleic mà người ta cho rằng nó có nguồn gốc từ nhân của rong.
Người ta đã xác định được vai trò hoạt hóa các đại thực bào với số lượng hạn chế có vai trò nhận biết và tiêu diệt các tế bào ung thư, các protein ngoại lai và các hóa chất trong cơ thể con người. Các chế phẩm vách tế bào bị phá vỡ và dịch chiết của Chlorella pyrenoidosa được đưa vào cơ thể bằng cả đường miệng hoặc tiêm giúp tăng trưởng nhanh và giúp vết thương mau lành. Các chế phẩm này kích thích hệ miễn dịch theo một cách mà vật chủ được bảo vệ khỏi sự nhiễm trùng và ung thư.
Chlorella pyrenoidosa khi được hấp thụ vào cơ thể còn có tác dụng sau: Tăng cường interferon, làm sạch máu, gan, thận và ruột, kích thích sinh sản tế bào hồng cầu, tăng oxy cho các tế bào và não, trợ tiêu hóa, kích thích quá trình sửa chữa ở các mô; giúp tăng PH máu để đạt trạng thái kiềm hơn; giúp giữ cho trái tim hoạt động bình thường; giúp tăng cường sản phẩm của các khu hệ sinh vật trong đường tiêu hóa. Tất cả mọi người đều dùng được các sản phẩm từ rong này để điều trị các căn bệnh như: mệt mỏi kinh niên (fatigue), áp huyết cao, tim mạch, mất trí nhớ, cholesterol cao, lão hóa da, ngộ độc máu, tuần hoàn máu kém, đau đầu, rối loạn giấc ngủ, sưng và đau khớp, béo phì và các bệnh nhiễm trùng, dị ứng, chấn thương.
Chlorella loại các độc tố kim loại nặng và các chất độc diệt cỏ
Tất cả các axit amin đều có thể vượt qua các rào cản của máu và não tuy nhiên giữa chúng luôn có sự cạnh tranh về vị trí các tế bào. Các axit amin lưu huỳnh như Methionin, Cystein và Cystin là đích đến của quá trình thải độc các kim loại nặng và các chất sinh học lạ. L – Glutathion là một chất chống oxy hóa mạnh có khả năng ngăn cản sự hình thành các gốc tự do. Nó có thể vượt qua rào cản của máu và não và loại bỏ các kim loại nặng Hg ra khỏi não. Chất có vai trò chủ chốt trong việc hỗ trợ dinh dưỡng trong quá trình loại Hg là Chlorella. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng Chlorella có tác dụng tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể. Chlorella loại bỏ Hg khỏi các tế bào và đường ruột rất hiệu quả. Chlorella được mô tả như là một chất trao đổi ion trong đường ruột, loại bỏ Hg trong máu. Chlorella giữ vai trò chủ chốt trong việc giúp bệnh nhân thải loại Hg độc ở toàn bộ cơ thể. Chlorella tăng cường “sức khỏe” cho các tế bào cơ thể bằng cách hỗ trợ các con đường trao đổi chất hoạt động đúng chức năng. Chlorella kích thích sự sinh sản của tế bào, hạ cholesterol, tăng nồng độ Hemoglobin. Vì Chlorella có nhiều công dụng như vậy, nó có thể giúp cho quá trình sửa chữa và phục hồi ở các mô bị tổn thương do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các sợi tổng hợp có thành phần Chlorella sẽ làm tăng cường sự tiêu hóa và sinh trưởng của các vị khuẩn kị khí có ích của đường ruột. Những chương trình nghiên cứu khác đã cho thấy rằng sử dụng Chlorella thường xuyên có thể giúp chống lại các bệnh tim mạch, giảm huyết áp nồng độ Chlorella trong huyết thanh. Nói tóm lại thì chưa có thực vật quang hợp nào dưới ánh sáng mặt trời lại có nhiều ích lợi đối với con người như Chlorella. Với những phát hiện khoa học có ý nghĩa như trên, loài rong này nên trở thành một phần không thể thiếu trong khẩu phần ăn hàng ngày để chúng ta có thể hưởng thụ những lợi ích mà nó mang lại cho sức khỏe của chúng ta. Các nghiên cứu ở Mỹ và Châu Âu đã chỉ ra rằng Chlorella có khả năng giúp cơ thể bẻ gẫy các hydrocacbon bền và loại các độc tố kim loại nặng cũng như các chất độc diệt cỏ như DDT, PCB, Hg, Cd. Chlorella liên kết chặt chẽ với Cd không để nguyên tố này hấp thụ vào trong người và sau đó sẽ loại bỏ nó khỏi cơ thể. Năm 1975 nhà khoa học Nhật Bản Hagino đã chứng minh được điều đó. Chlorella được dùng để giải độc với những người bị mắc bệnh PCB (polychlorobiphenyl) và các chất trừ sâu như Chlorodecone. Vách tế bào Chlorella có khả năng hấp thụ và bám với nguyên tử riêng biệt như Uranium và Chì.
Ngoài ra, người ta còn phát hiện thấy Chlorella còn có khả năng chống tia phóng xạ Gama. Năm 1984, tiến sĩ Pore của viện Y học thuộc trường đại học Tây Virginia đã thử nghiệm dùng Chlorella để thải độc chlordecone cho chuột. Chlordecone (kepone) là một loại thuốc trừ sâu có bản chất hydrocacbon chlorinate rất độc. Kết quả cho thấy rằng chất độc đã được đào thải khỏi cơ thể với thời gian nhanh gấp 2 lần khi không dùng Chlorella, giảm thời gian bán hủy của các độc tố từ 40 xuống 19 ngày. Tiến sĩ Pore cũng phát hiện thấy trong thành tế bào còn có một chất có hoạt tính sinh học khác là sporopollenin (chất này giống như polymer của các carotene). Khả năng đào thải chất độc ra khỏi cơ thể của Chlorella rất có ý nghĩa vì ngày nay một lượng lớn các chất độc khác nhau được thải ra ngoài môi trường sống của con người trên toàn thế giới. Khả năng thải độc cũng là một điểm khác biệt lớn giữa Chlorella và các sản phẩm “xanh” khác. Tiến sĩ Ueda của Viện nghiên cứu giảm thiểu ô nhiễm môi trường thuộc trường đại học thành phố Kitakyushu Nhật Bản đã thử nghiệm cho 30 bệnh nhân bị đau do nhiễm độc PCB dùng Chlorella liên tục trong 1 năm với liều lượng 4 – 6 g/ngày. Kết quả cho thấy sức khỏe của các bệnh nhân này đã có những tiến triển thật tốt: Không mệt mỏi, tiêu hóa tốt và không còn đau khi đi lại vận động.
Chlorella tác dụng như một Dược phẩm có giá trị
Chlorella là một dược phẩm có giá trị như đã nêu trên, song việc sử dụng là rất khó khăn, cơ thể người không thể hấp thụ trực tiếp bởi đường tiêu hóa vì vách tế bào rất cứng khó phá vỡ. Muốn phá vỡ tế bào cần phải có một phương pháp đặc biệt. Phương pháp có hiêu quả để phá vỡ tế bào của Chlorella là phương pháp cơ học Dyno – Mill. Quy trình của phương pháp này đã được đăng ký bản quyền với tên của nhà sáng chế Hideo Nakayama của Công ty Sun Chlorella. Tất cả các phương pháp khác như gia nhiệt, xử lý enzym, gồm cả khả năng tiêu hóa của rong, vì thế sẽ minh chứng cho các ích lợi sức khỏe của Chlorella. Phá vỡ vách tế bào của rong bằng cách sử dụng biện pháp cơ học Dyno – Mill, không cần đến các biện pháp xử lý bằng chất hóa học, enzym, hay đốt nhiệt sẽ làm tăng giá trị dinh dưỡng trong khi đó vẫn đảm bảo sự đồng hóa và tiêu hóa tối ưu. Với việc sử dụng kỹ thuật Dyno – Mill, hơn 85 % Chlorella có thể tiêu hóa được. Khi vách tế bào đã được phá vỡ, rong được sấy khô thành chế phẩm dạng bột và được đóng viên. Một liều duy trì thuốc Chlorella viên hay dịch chiết tốt nhất cho sức khỏe là 15 viên (3 g) và 30 ml. Những người uống thuốc chữa bệnh có thể tăng liều lên gấp 3 lần so với bình thường tùy thuộc vào nhu cầu của bệnh nhân. Kết quả thử nghiệm cho thấy rằng, Chlorella pyrenoidosa ảnh hưởng tới hệ miễn dịch do kích thích làm tăng số lượng và tăng hoạt động của các đại thực bào và các tế bào bạch cầu đa nhân. Vách tế bào Chlorella pyrenoidosa có một loại polysaccharid chiết bằng nước nóng có khả năng cảm ứng sự tăng sinh interferon và có tác dụng chống ung thư trong thử nghiệm in vitro và ở chuột. Khi được kết hợp theo một các đặc biệt với các axit amin, Chlorella trở thành một chất điều khiển sinh trưởng hay tác dụng theo một cơ chế mà vẫn chưa được biết.
Chlorophyll
Đã hơn thế kỷ nay, các nhà khoa học rất quan tâm tới việc chiết tách các sắc tố từ lá xanh của thực vật bậc cao. Các đây hơn 100 năm các nhà hóa học đã tách được chất màu xanh từ lá và gọi chúng là Chlorophyll. Vào năm 1913, Richard Willstatter, nhà hóa học ngườI Đức đã chỉ ra rằng tất cả các năng lượng sống đều nhờ mặt trời. Cây xanh có một cách nào đó để giữ năng lượng mặt trời. Tới năm 1919, ông đã giải thích được chức năng của chất giữ năng lượng mặt trời chính là chất được gọi là Chlorophyll. Thực vật bậc cao có lá xanh đã tự mình hấp thụ được năng lượng tia bức xạ và chuyển hóa thành năng lượng dự trữ trong cơ thể.
Chlorophyll giữ vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình quang hợp, là chất đầu tiên nhận năng lượng ánh sáng cho hệ quang hợp. Chlorophyll hấp thụ ánh sáng chuyển về dạng năng lượng ATP, trong quá trình này xảy ra các phản ứng chuyển dịch electron (phản ứng oxy hóa khử) tạo thành các sản phẩm oxy hóa và khử.
Chlorophyll có những ứng dụng khác nhau trong y học, công nghiệp. Trong y học, chlorophyll được chú ý nhiều như một thành phần cơ bản cho khẩu phần ăn kiêng chữa bệnh và như là chất chữa bệnh. Thí dụ chlorophyllin dẫn xuất kim loại của chlorophyll, có tiềm năng phòng chống các chất gây ung thư từ thức ăn bị thiu mốc như hydrocarbon mạch vòng, aflatoxin. Chlorophyll và các dẫn xuất còn được sử dụng như là chất cảm thụ ánh sáng để diệt các tế bào ung thư và chống virus, chất kháng bổ thể, chất chữa vết thương và khử mùi hôi.
Chlorophyll ức chế phát triển của vi khuẩn, kích thích việc phục hồi các mô đã bị hư hại và bảo vệ con người khỏi các chất gây ung thư.
Chlorophyll còn giúp cho tiêu hóa tốt và làm cho da thêm đẹp.
Chlorophyll còn làm tăng chức năng của tim, hệ huyết quản, phổi và các chức năng của phụ nữ. Chlorophyll được dùng tốt trong các trường hợp thiếu máu, huyết áp không bình thường có nguy cơ dẫn đến xơ vữa động mạch. Nó kích thích các trạng thái nhu động: hoàn thiện hệ thống ruột non, giảm hàm lượng ure – như là một thuốc lợi tiểu.
Đã có những công trình nghiên cứu khả năng chữa bệnh của các hợp chất vớI chlorophyll để chữa, tiêu diệt tế bào ung thư tủy, virus leukemia, u ác tính (malignant melanoma). Chlorophyll còn có tác dụng giảm viêm khớp (arthritis), xử lý các u xơ, giảm mùi hôi, giảm đường máu của người bệnh già.
Một tính chất quan trọng nữa của các hợp chất chứa chlorophyll (bao gồm các chlorophyllin) có thể so sánh được vớI a – tocopherol là tính chất chống oxy hóa (antioxydant).(xem thêm)
|