Mặt khác, phương tiện giao thông thời xưa kia (đường xá, cầu nối) – thời điểm hơn 2500 năm về trước – cũng thật là hạn chế (nói đúng hơn là vô cùng khó khăn) để có thể liên hệ từ vùng nầy với vùng khác[đa phần là cây rừng, đầm lầy nhiều hơn là đất trống (biên địa)]. Do vậy mà ngôn ngữ bản địa(thổ ngữ), phát âm địa phương(vùng, miền) cũng vô cùng đa dạng{thí dụ phát âm 3 miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam: Trùng nghĩa[Bố/Mẹ, Thầy/O(U), Tía/Má, Cha/Mẹ(Mạ); Chân chánh, Chân chính, Chơn chính, Đúng thật; Úi dời, Ối dời, Hỡi ôi, Mèn ơi, Mẹt đét ơi, Eo ơi, Chao ơi, Cha chả...]; Trùng âm: Tập, Dập, Bập, Đập, Nhập, Lập; Diệt, Triệt, Tiệt, Liệt, Kiệt, Miệt; Ngũ, Ngủ, Ngụ, Ngu; Đúng rồi, Trúng dồi, Phải rồi; Chính trị, Chánh trị, Chính chị]}... Nhớ lại thời đất nước Việt Nam chưa thống nhất - cách đây vài chục năm - tính bất đồng ngôn ngữ địa phương trong giao tiếp giữa 3 miền với nhau xãy ra thường xuyên -> sanh ra nhiều chuyện hiểu lầm ngoài ý muốn... Kế tiếp hãy đồng đối chiếu lại dòng lịch sử của nước Việt Nam ta vào khoảng TK V để giúp dễ hình dung - tức là sau thời Đức Phật khoảng 1500 năm - để có thể di chuyển từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa cách khoảng vài trăm cây số thôi, thế mà các sĩ tử muốn lên kinh đô ứng thí phải lặn lội gian nan suốt hàng tháng trời mới tới nơi!... Như vậy so với đất nước Ấn Độ rộng lớn hơn gấp 20 lần Việt Nam vào thời xưa kia. Chúng ta hãy cùng thử hình dung ra mà xem... Do đó, những người theo tu học (tu sinh) khắp nơi xa, gần ở thời xưa kia tất nhiên không cách nào khác hơn là họ cần phải qui tụ (Sáp Tùng) đến ở chung cùng một chổ (Lâm Cư) ngày càng nhiều (Đại Tùng Lâm) - thường là cư ngụ trong rừng - cùng gắn kết với nhau để tu học bằng cách truyền tụng nhau những ý nghĩa thiết thực và ngắn gọn (liễu nghĩa) giáo pháp mà Đức Phật đã giảng… Lời chỉ dẫn của Đức Phật theo ngôn ngữ Ấn Độ là chữ सूत्र{phát âm là Sutra[đọc theo âm miền Bắc Ấn Độ(tiếng Sanscrit,/tiếng Bắc Phạn), phát âm là Sutta[đọc theo âm miền Nam Ấn Độ(tiếng Pali/tiếng Nam Phạn)]}. Và सूत्र có nghĩa là công thức(formula) hay phương thức, cách thức, phương pháp, giải pháp Diệt Dukkha[Khổ đế(phiền não, trói buộc, níu kéo, bất tự do)] mà sau nầy gọi là "Kinh" với nhiều sự thêu dệt huyễn hoặc xa rời tính khoa học mà Đức Phật đã từng giảng giải...
Đến đây chúng ta hãy thử đặt ghi vấn (tri kiến và tư duy lại) là nếu giáo pháp xưa kia mà Đức Phật thuyết giảng cầu kỳ, phức tạp theo như một rừng sách bày biện, một rừng văn từ thêu dệt huyễn nghĩa (bất liễu nghĩa) như hiện nay(biến tướng dần thành huyễn thuyết tôn giáo, học thuật siêu huyền, triết học trừu tượng, tâm lý học, xã hội học...), cho dù mọi người theo tu học ngày ấy có đầy đủ phương tiện hiện đại để giúp ghi nhận giáo pháp(giấy bút, máy ghi âm, băng ghi hình, phone, internet,…), có chỉ số IQ (thông minh) cao...liệu có giúp cho hơn 2400 tu sinh thời xưa tu thành Thánh Quả trong vòng 49 năm được hay không? hay phải mãi quanh quẫn “ngâm cứu” suốt 49 năm chất chồng những sai lệch (dị biệt) mù khơi không lối thoát truyền lan và di chứng tận đến suốt nghìn năm?!...
3. Nhớ lại lời dạy xưa kia của Đức Phật nói về lá rừng trong tay, một hôm ngài hỏi các tu sinh rằng: “Nắm lá trong tay Như Lai nhiều hay ít so với lá rừng kia? Tất cả đều dễ dàng đáp ngay: Thưa Thế Tôn lá rừng kia nhiều hơn nhiều. Đức Phật tiếp: Cũng vậy, những điều mà Như Lai biết tựa lá rừng kia, điều mà Như Lai cần nói đến quý vị (quý Thầy, quý Đại Chúng) đều gói gọn tựa như lá trong tay Như Lai đã được chọn lọc từ lá rừng mông lung, chằng chịt kia nay dùng làm thuốc chữa phiền não diệt Dukkha, thảy đều nằm trong tầm tay chúng ta, điều Như Lai nói không gì khác hơn đó là Khổ và Diệt Khổ. Hãy chớ để bị lạc giữa rừng mê”.
4. Để giúp mỗi người chúng ta đều dễ dàng nhận thức ra vấn đề, bằng cách đối chiếu lại (quán chiếu) qua thực nghiệm thực tế. Chúng ta hãy cùng 5 nhóm người, đại diện cho 5 miền dân tộc: Bắc, Trung, Nam, Mường, Dao [tượng trưng cho 5 giai cấp(Bà la môn, Sát đế lợi, Vệ xá, Thủ đà la, Ba ri la) của xã hội Ấn Độ thuở xa xưa]. Và cùng nhau thử nghiệm vào sinh sống trong khu rừng rậm rạp một thời gian xem thử - một nơi hoàn toàn cách ly với mọi phương tiện hiện đại(không điện, không điện thoại, không internet, không giấy viết, không đường xá, không tương đồng ngôn ngữ) – rõ ràng là để có thể học hỏi được lẫn nhau và để ghi nhận được lời truyền đạt của người đội trưởng của 5 nhóm(tượng trưng Đức Phật) chuyển lưu đến từng người về giải pháp(Pháp) giúp nhau tìm cách thoát khỏi(Giải thoát) ra khu rừng dày đặc âm u che ám(Vô minh) nầy đặng mà tìm đường(Tầm Đạo) cùng nhau quay trở về(Qui y) nhà mình?...thì rõ ràng là không cách nào khác có thể giúp nhớ được (ghi nhận lại) lời người đội trưởng đã nói và đã chỉ dẫn(thông tin truyền đạt, thuyết giảng) -> đó sẽ chính là việc mà chính tự mỗi người cần phải tự thường xuyên nhẩm lại, tự nói lại(tụng đọc lại) những thông tin đã được học (đã nghe), đó là cách học bài(tu học giáo pháp) đối với nhóm người có bộ nhớ và tư duy hạn chế. Hoặc tìm cách đối chiếu một cách trực quan phản ảnh tính tương đồng cùng với những cảnh vật bên ngoài(ngoại chư pháp) để mà ghi nhớ (trực quan sinh động), ghi nhận(nghiệm lại) và giúp mở rộng thêm vấn đề thiết thực cần kiến giải - cách tu học đối với nhóm người có bộ nhớ và tư duy tốt - một cách gói gọn tổng hòa(Chánh niệm tánh cảnh) và phối hợp cùng tập thể(Tăng già) luôn sát cánh cùng nhau hội kiến(kiến hòa đồng giải) để giúp tránh bị hiểu nhầm vấn đề hoặc cùng sáp tùng gắn kết lại với nhau nếu muốn tiến bộ và không để bị lạc đường!... Hãy cùng nhau đối chiếu lại vấn đề một cách xác thực(Chánh tri kiến và tư duy), mỗi chúng ta đều nhận thấy (đồng sáng tỏ) thật rõ ràng là không khác gì giải pháp mà người xưa - giáo đoàn Thích Ca ngày ấy - đã từng thực thi đúng không? Và thêm một ghi vấn thiết thực nữa là nếu giải pháp (pháp) đưa ra của người đội trưởng của 5 nhóm không ngắn gọn, chuẩn xác(liễu nghĩa) và phù hợp với mọi đối tượng(trình độ, năng lực, ngôn từ), thì liệu cho đến bao giờ mới có thể giúp cho mọi người cùng nhận ra con đường (đạo) đặng mà thoát khỏi khu rừng ngày càng rậm rạp kia để sớm quay trở về nhà? Cũng vậy, giáo pháp nguyên thủy xưa kia mà Đức Phật đã từng thuyết giảng chỉ gói gọn ở 3 ý Giới-Định-Huệ và đó chính là bản đồ (hay chiếc bè) chỉ cho (hay chở giúp) muôn loài (chúng sanh) đúng theo đó (qui y) mà tự lực (y pháp bất qui nhân), để tìm đường đi (hành đạo) thoát khỏi khu rừng danh sắc ngày càng bành trướng rập rạp ràng buộc sự tự do của muôn loài(sự sống không mãi còn, ước vọng không thành tựu, luôn gặp những oan trái, hận thù chồng chất, không mãi được yêu thương, trong sạch…), mà sự cản trở tự do thật sự như đã dẫn gây nên cái gọi là “Dukkha (Khổ)”. Theo đúng(qui y) bản đồ và gắng công chóng chèo chiếc bè (hành tri giáo pháp) + 3 điều luôn bảo lưu(Tam bảo) vào tâm khảm, tức 3 điều hằng tâm[Giác Ngộ (Phật) + Pháp Tánh (Pháp) + Hợp hòa (Tăng)]. Thấu rõ chân lý, hành đạo theo chánh lý sẽ giúp cho người hành giả(hành động trong hiểu biết) tự mình giải thoát mình ra khỏi khu rừng mê danh sắc, xa lìa biển sanh tử, vòng xoáy luân hồi đeo bám bởi vô minh, đó tức là Diệt Khổ. Hãy chớ để bị nhầm lẫn: Giới-Định-Huệ(Tuệ) là Văn-Loạn-Mê, Qui y tự tánh(Vô Tướng, Vô Vi) thành Qui y pháp tướng và hình sắc(Hữu Tướng, Hữu Vi), Tam bảo hằng tâm thành Tam báu(Tam bửu) cột tâm -> không khéo chính mình tự trói chặc mình vào rừng văn từ hảo huyền, huyển hoặc, chạy đuổi theo pháp tướng hư vọng, tâm thức bị khống chế bởi hình sắc mê hoặc -> tạo nên hiệu ứng loạn tâm, mê kiến gây lây nhiễm đến không lường!...[Qủa]. Tất cả hệ lụy đều bởi mãi do tinh tấn hành trì nhặt lá rừng mê thay vì nắm lá trí huệ trong tầm tay mà Như Lai đã chỉ ngày ấy...[Nhân]. Một lần nữa hãy nhớ lại sự thành đạt thánh quả (liễu đạt) của hai vị Ưu Ba Ly và Huệ Năng ra để cùng nhau mà nhìn lại (soi quán lại) thật đúng đắn, chuẩn xác giáo lý do Đức Phật truyền giảng thuở ban đầu – Phật học nguyên thủy - con đường giác ngộ thật là giản dị, thật là đại chúng và thật là thiết thực. Ai đi đúng đường, người ấy tất sẽ tìm ra, nhà ta vốn không xa.
*Điều còn vướng mắc:
Trong những bước đầu tìm hiểu về Phật học hầu như đa số mọi người đều bị vướng mắc rất nhiều về những thuật ngữ Hán Việt chuyên biệt sử dụng xen lẫn trong giáo pháp. Mà sự trói buộc (Nhược tùy ư văn giáo) áp đặt tuân thủ theo bởi do nhiều nguyên nhân: 1. Thời xưa kia chiếu chỉ (pháp lệnh) ban ra của vua chúa được quần thần, chúng dân xem đó như là "ngôi báu thứ 2" thay mặt vua chiếu lệnh khiến mọi người tự giác quỳ mọp để nghinh tiếp và răm rắp tuân thủ một cách bất tư nghì(Quân xử thần tử thần bất tử bất trung)... Đất nước Việt Nam ta ngàn năm nô lệ giặc Tàu -> di truyền tâm thức về sự qui phục tuân thủ rập khuôn theo Hán từ một cách vô thức -> tự ám thị vướng kẹt vào văn từ huyễn hảo -> hiểu sai giáo pháp là điều không thể tránh khỏi...; 2. Những thế hệ sau tự chế tác theo tư kiến tôn tạo(hệ quả từ việc tu sai đường lạc lối mà sanh ra tà kiến, hoặc rập khuôn theo các vị vua chúa xuất gia -> bị pháp hữu vi và hình sắc chế ngự) -> gây mê hoặc tín đồ, vọng tưởng hướng cầu tướng tượng cảnh sắc bên ngoài (nhập tướng ly tánh) mà đánh mất dần tự tánh (bản tâm) vốn tự tại, thanh tịnh, hằng vĩ của chính mình -> dẫn đến tà kiến biện thông (ma nói) gây nên sự biến thể dị biệt theo thời gian; 3. Lỗi do người dịch thuật, người giảng lại nhiệt tâm hoặc mê muội, hiểu sai, ngụy tôn(danh vị, học thuật, quyền thế, hình thức đạo mạo), bị năng lượng đen điều khiển, đám đông kích hoạt(đồn thổi, xưng tán),... -> tự tạo nên vòng kim cô trói buộc mãi lẫn nhau suốt bao đời kiếp. Do đó, muốn tháo gỡ dần hẵn các gút mắc như đã nêu - không cách nào khác - ngoài việc các bạn cần nên cố gắng đọc thật kỹ, hiểu thật rõ ràng nội dung căn bản được trình bày ở phần nầy sẽ giúp cho chúng ta tự hóa giải tốt những điều như sau:
(Xem tiếp->)
|