Tiềm năng con người qua nhãn quang khoa học - khai mở tiềm năng bằng tri thức
1. Đặt vấn đề
Một số khái niệm
- "Tiềm năng" có nghĩa là năng lực tiềm tàng trong cuộc sống, những nguồn năng lượng tiềm ẩn trong cơ thể. Chúng có thể đã, đang và sẽ biểu hiện qua muôn hình vạn trạng của tạo vật trên mọi khía cạnh, sắc thái của vạn hữu tùy theo thiên chức nhân duyên hay sự điều tâm rèn luyện mãnh liệt.
Tiềm năng nằm ở đặc tính vật chất và ở sức mạnh tinh thần.
- Các loại tiềm năng và giới hạn của tiềm năng
Tiềm năng cuộc sống quả là vô hạn bởi tính vô hạn của cuộc sống, sự vô tận của vũ trụ và vô cùng của tâm hồn. Nhưng chung quy, dù tinh thần có đi đâu, về đâu thì kết cục vẫn thu về một mối : Chân (lý), Tâm (tình), Chân (thực), Không (tức là tự do)...
- Bản chất cuộc sống của con người
Con người là thể hài hòa giữa bản năng (tự nhiên) và nhân tính (nhân loại), giữa tinh thần và vật thế, giữa cá nhân với môi trường (tự nhiên và xã hội). Cho nên cuộc sống chẳng qua là sự trao đổi của những luồng tâm tư (Vivekananda) hay cuộc sống đích thực của con người là văn hóa tinh thần (F. Hegel).
- Nhu cầu phát triển tiềm năng
Cuộc sống là một sự vận động không ngừng mà bản thân con người luôn có khát vọng tự thân tìm ra chân lý trường tồn, cội rễ của mọi hạnh phúc. Trên con đường tiệm cận tính đích thực, người ta biểu lộ khả năng trong mọi khía cạnh, phát triển nhận thức không ngừng và do đó tiềm năng của chúng ta luôn luôn được đơm hoa kết trái trong cuộc sống. Có điều làm sao cho chúng được chan hòa, giao cảm một cách vô tư, hồn nhiên rộng rãi và hết khả năng.
Ngày nay, trong thời đại biến chuyển nhanh chóng của khoa học công nghệ, kinh tế tri thức và văn hóa thông tin, việc khai phóng tiềm năng có vai trò quyết định đến sự phát triển của bản thân và xã hội, bảo đảm khả năng bền vững cho cuộc sống rộng mở.
- Vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống
Cũng như mọi tạo vật khác, con người có đầy đủ những bản năng tồn tại bình hòa với những nhu cầu tối thiểu. Nhưng hơn hẳn muôn tạo vật khác, con người có ý chí, tư tưởng và nhận thức, có khát vọng cao cả và có tình yêu rộng mở. Chính "tư tưởng tạo nên sự cao cả của con người" và tâm tình yêu thương không ngừng tăng tiến đã "biến những điều không thể thành có thể". Cho nên, việc khơi dậy tiềm năng con người thực chất là làm thức dậy khả năng tự nhiên bình hòa vốn có và phát triển tâm tình hướng tới những khung trời mỹ cảm cao sáng.
2. Tiềm Năng - Suối nguồn của các thành tựu khoa học
Phải thừa nhận một thực tiễn rằng mọi thành tựu khoa học đều được kết trái, chín mọng từ những bông hoa tiềm năng nở rộ và tỏa hương. Mọi dấu ấn nhận thức, hiểu biết và thành công trong cuộc sống đều chan chứa năng lượng tâm thức được dồn nén (hoặc khai phóng) của con người. Trước vẻ đẹp sững sờ của thiên nhiên, trước những đặc tính kỳ diệu của tạo vật và những khát vọng vươn lên của tinh thần, con người điều tâm, tỏ lòng và quên mình hướng tới những bản sắc đó để giao duyên cảm ứng và hội thông, từ đó mà khơi dòng cho những nghệ thuật hay giai điệu bổng trầm. "Tay người như có phép tiên, Trên nền tre lá dệt nghìn bài thơ” (Nguyễn Đình Thi).
Như trên đã trình bày, khoa học là hệ thống những hiểu biết về quy luật phát triển của đời sống... mang những giá trị tinh thần. Cho nên trước hết tiềm năng của cuộc sống chính nằm ngay trong tinh thần, trong những quy luật tâm - sinh lý của thiên nhiên vũ trụ. Cho nên để khai phóng tiềm năng thì hệ thống hiểu biết phải đồng điệu với những thổn thức của tự nhiên, duyên tình của đất trời và tinh thần của tạo hóa.
2.1. Những trước tác cổ xưa kết tinh sự gắn kết: Thiên địa nhân - Tam tài vị nhất thể?
Ý nghĩa và giá trị của "Hệ thống hiểu biết những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy "
Ngày xưa, nhà bác học cổ đại lừng danh Aristotle với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng cho tới tận ngày nay: Phép siêu hình, Luân lý học, Vật lý học, Bàn về công cụ, Bàn về linh hồn… Thuở còn trẻ ông không tin và phản kháng, cự tuyệt khi người thầy vĩ đại Plato giảng giải về thế giới tâm linh, thế giới tinh thần : "Đối với ta Plato thật là đáng quý nhưng chân lý còn đáng quý hơn". Ấy thế mà sau bao năm hướng trí tuệ của mình ra ngoài, vào những hiện tượng, sự việc đang diễn ra trong cảm giác, trong quá trình soi rọi tới những nơi sâu kín cơ thể sinh vật và vô sinh, những huyền bí của vũ trụ, với bao kinh nghiệm từng trải ông lại trực giác "tất phải có một cái gì vĩnh hằng và bất động đã làm cho trời và vạn vật trên trái đất chuyển động". ông tin tưởng mãnh liệt vào "nguồn động lực ban đầu” nơi trú ngụ của trí tuệ. Ông là người luôn luôn đề cao đạo đức, luân lý trong đời sống và hành vi.
Giới y học chẳng mấy ai không biết đến danh y người Hy Lạp cổ Hyppocrate. Ông nổi tiếng với phương pháp chữa bệnh yêu cầu con người phải hướng tới sự thân thiện với thiên nhiên môi trường để nâng cao sức đề kháng tự nhiên của cơ thể, tránh tất cả những gì cản trở đến khả năng tự điều chỉnh tự chữa, đem lại sức khỏe tự nhiên cho cơ thể. ông còn trở nên nổi tiếng với đạo đức y học, với lời thề Hyppocrate mà các thầy thuốc trước đây phải tuyên đọc trước khi ra trường. Đại lược những lời thề đó như sau: "Tôi xin thề trước Apollon - thần chữa bệnh, trước Esculape - Thần y học, trước thần Hygie và Panacee… tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để:
1. Coi thầy học ngang hàng với cha mẹ.
2. Sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh tránh mọi điều xấu và bất công...
3. Sẽ không trao thuốc độc cho bất cứ ai... không trao thuộc cho bất cứ phụ nữ nào những viên thuốc sẩy thai...
4. Sẽ suốt đời hành nghề trong vô tư và thân thiết...
5. Sẽ không làm phẫu thuật có thể gây biến chứng vô sinh, mà để những công việc đó cho người chuyên khoa.
6. Dù vào bất kỳ nhà nào cũng chỉ vì lợi ích người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa cố ý và đồi bại.
Phương pháp chữa bệnh của ông và lời thề Hyppocrate cho đến nay càng có ý nghĩa thời sự bởi như Giáo sư Mariano de Castex đã nhận xét tại Hội nghị quốc tế về nội khoa ở Buenos Aires (1964)? " Những năm gần đây, trước sự xâm lấn của kỹ thuật học - khoa học vào Nội khoa... đã làm mất nhân tính của người bệnh và mất tư cách của người thầy thuốc... Trước tình hình đó, truyền thông lâm sàng cổ điển - đại diện là Y học Hyppocrate - đã đứng lên bênh vực đặc quyền của quan sát lâm sàng sáng ngời bởi uy tín của 25 thế kỷ vô cùng phong phú!”.
Người khỏe có ngàn ước mơ nhưng người ốm chỉ có một ước mơ: khỏe mạnh! Để đạt được những trạng thái tất lành về sức khỏe, thể chất và tâm lý, Cổ thư Trung Hoa đã dạy rằng con người ta phải thuận theo sinh khí của trời đất: "Thuận trời thì sống, chống trời thì chết".
- Mùa xuân: "Khí” của trời đất mới nảy sinh, khí của người ở kinh mạch. Nên dậy sớm, đi lại thong thả, không vấn tóc, không mặc đồ chật, tâm trí thảnh thơi. Làm được như vậy là hợp với khí xuân. Can (gan) khổ về sự thái quá, ăn ngọt để hoãn lại.
- Mùa hạ: "Khí trời - đất" giao nhau, muôn loài đều tốt tươi, nở hoa kết trái. Khí của con người ở tồn lạc - cơ nhục. Nên dậy sớm chớ ngại ngày dài. Tránh giận dữ để thần khí thư thái. Đầu mùa hạ: Tâm (tim) khổ về sự hoãn lại, kịp ăn chua cho thâu lại. Trường hạ: Tỳ (lá lách) khổ về thấp, ăn vị đắng cho khô ráo.
- Mùa thu: "Khí” trời lạnh ráo, "khí” đất trong sáng. Khí của người ở bì phu. Nên dậy sớm cho người yên bình. Phế khô do nghịch khí, ăn cay cho tiết đi.
- Mùa đông: "Khí” trời bế tàng, nước giá lạnh (đóng băng), mặt đất nứt nẻ. Khí con người ở cốt tủy, không nên làm nhiều động dương khí, nên ngủ dậy muộn. Tránh nơi rét gió lùa, đừng để da thịt hở nhiều khiến cho khí như ẩn dữ. Thận khô vì táo, ăn mặn để cho nhuận.
Trong không khí hòa thuận với thiên nhiên, khoa học kỹ thuật có cơ hội phát triển rực rỡ và trở thành công cụ sắc bén cho những con người thông thái trên con đường cầu thị chân tri.
2.2. Những thành quả khoa học hiện đại hay "Những con đường phương pháp, cách lối... phù hợp với chân lý khách quan và thực tiễn đời sống" và cảm nhận của một số bác học lừng danh.
- Tính chất tương đối của không - thời gian:
Năm 1905, Albert Einstein công bố "Lý thuyết tương đối đặc biệt" của mình và làm đảo lộn toàn bộ các khái niệm chính của Newton về thế giới. Theo lý thuyết này, không gian không phải là ba chiều và thời gian không phải là riêng rẽ, cả hai liên kết chặt chẽ với nhau và tạo nên một thể liên tục vô tận (continuum) bốn chiều "Không - thời gian". Không thể không nói đến không gian mà không có thời gian và ngược lại, không có dòng chảy phổ biến của thời giàn: thời gian không tuyến tính cũng không tuyệt đối, nó uốn lượn theo lăng kính không gian, thời gian là tương đối.
Trong continuum không - thời gian, Einstein nói rõ rằng tính chất tuyến tính, biểu kiến của sự kiện tùy thuộc vào người quan sát. Như vậy không gian nào thời gian ấy, mỗi một không gian có một dòng thời gian tương ứng, thời gian là một tọa độ của không gian. "Độ dài" của không gian ở các thời gian khác nhau sẽ khác nhau.
Một hệ quả quan trọng của thuyết Tương đối là vật chất và năng lượng (dạng hạt sóng) có thể chuyển hóa cho nhau, khối lượng là một hình thức của năng lượng (khối lượng chứa dựng những năng lượng tiềm tàng, kết tinh cố kết trong vật chất liên kết). Vật chất là hình thái của năng lượng chuyển động chậm lại hay kết tinh lại. Do vậy không gian tràn ngập năng lượng "mỗi bước tiến của ta lại gặp phải bức tường không gian vô tận". "Từ nay trở đi, một mình không gian riêng biệt và một mình thời gian riêng biệt đều phải lùi vào bóng tối và chỉ có một dạng kết hợp nào đó của cả hai đại lượng này được tồn tại một cách độc lập mà thôi".
Quan điểm Toàn đồ (hay Toàn thể) về không gian
Từ nửa đầu thế kỷ XX, thuyết sóng - hạt lưỡng nguyên về ánh sáng (lý thuyết De Broglie) cho thấy hạt có thể cùng lúc là sóng bởi vì chúng không phải sóng thể chất thực như sóng âm hay sóng nước. Sóng xác suất không đại diện cho xác xuất đồ vật mà cho xác suất của các mối liên hệ tổng thể nhiều hơn. Mặc dù nó là khái niệm khó hiểu theo quan niệm tĩnh, còn về quan điểm động biến thì không có đồ vật nào như thể là "đồ vật" cả. Cái mà ta dùng để gọi là "đồ vật" thực ra là "sự kiện lịch sử” hoặc đường mòn đã trở thành thói quen.
Thế giới cũ của các không gian, vật thể và các quy luật quyết định của tự nhiên giờ đây hòa vào một thế giới mô hình dạng sóng các mối liên kết. Toàn bộ không gian vũ trụ hiện ra như một mạng lưới năng động các mỏ hình năng lượng không thể tách rời. Vậy là vũ trụ được xác định là một tổng thể năng động không thể chia cắt về thực chất tổng thể này cũng bao gồm cả người quan sát.
Nếu vũ trụ là một mạng lưới năng lượng, một phổ tổng thể hài hòa thì không có vật gì riêng rẽ cả. Do đó, chúng ta hay mỗi cá thể không phải là những phần tử nào tách rời mà cũng là một tổng thể.
Trong cuốn sách Trật tự bao hàm, Tiến sĩ David Bohm đã nói rằng không thể phát hiện được những định luật vật lý chủ yếu bởi một nền khoa học mang mưu đồ đập vỡ thế giới từng phần. Ông cho rằng có một "trật tự bao hàm tiềm tàng” tồn tại trong trạng thái tiềm tàng và nó là cơ sở cho mọi thực tại hiển nhiên dựa vào, cái thực tại hiển nhiên là "trật tự bộc lộ biểu hiện". Các phần nhìn thấy ở trạng thái liên kết trực tiếp với nhau, trong đó các mối quan hệ động lực của chúng tùy thuộc một cách bất biến vào trạng thái của toàn hệ thống... Do vậy người ta đi đến một ý niệm mới về tính trọn vẹn không sứt mẻ, nó phủ nhận những ý tưởng cổ điển về tính phân tích được của thế giới thành những phần riêng rẽ và tồn tại độc lập. Tiến sĩ Bohm cho rằng quan điểm toàn đồ về vũ trụ là vị trí xuất phát để bắt đầu tìm hiểu các trật tự bao hàm tiềm tàng và các trật tự bộc lộ biểu hiện. Khái niệm toàn đồ nói rõ rằng mỗi phần là đại diện chính xác của tổng thể và có thể dùng để xây dựng lại toàn đồ trọn vẹn.
Năm 1979 Denis Gabor nhận giải thưởng Nobel về xây dựng toàn đồ đầu tiên. Đó là bức ảnh chụp không dùng ống kính trong đó một trường ánh sáng đo một vật tỏa ra được ghi lên một hình ảnh ba chiều. Mỗi phần của toàn đồ là đại diện chính xác của tổng thể và có thể xây dựng lại bức ảnh trọn vẹn.
TS. Kim Pribram, nhà nghiên cứu về não nổi tiếng, trong suốt một thập kỷ đã tích lũy được nhiều bằng chứng nói lên cấu trúc sâu của não thực chất là toàn đồ. Ông cho biết các nghiên cứu từ phòng thí nghiệm dùng vi phân tích tần số thời gian hoặc không gian đã chứng minh rằng não cấu trúc nên thị giác, thính giác và xúc giác một cách toàn đồ. Thông tin được phân bố trong toàn bộ hệ thống, do đó một mẩu nhỏ cũng tạo ra được thông tin của tổng thể. Pribram dùng mô hình toàn đồ để không những mô tả não mà mô tả cả vũ trụ cũng được. Ông cho biết não sử dụng một quá trình toàn đồ để tách ra khỏi một lĩnh vực toàn đồ vượt trước cả không gian và thời gian. Các nhà cận tâm lý học đã tìm tòi từ năng lượng cơ thể truyền đi qua thần giao cách cảm, cách không khiển vật, chữa trị. Từ quan điểm vũ trụ toàn đồ, những sự kiện này xảy ra từ những tần số vượt trước thời gian và không gian, không phải là chúng được truyền đi. Tiềm lực của chúng là đồng thời và có khắp mọi nơi.
Mỗi một con người là một toàn đồ, một tổng thể phổ quát. Về mặt vật lý chúng ta cần có điểm tựa, đó là không gian sống, không khí, dinh dưỡng, môi trường trao đổi chất và trau dồi, rèn luyện bản thân... Về mặt văn hóa, tinh thần chúng ta có nhiều vị thế, chức năng quan hệ khác nhau, quan hệ giữa nội giới - ngoại giới, trí tuệ - văn hóa, gia đình, họ hàng, bạn bè, làng xóm, đồng nghiệp, .đoàn thể xã hội, công việc. Về mặt trường, mỗi người có một trường sinh học, từ trường, trường tâm thần, các trường này liên kết với vũ trụ thông qua các kinh mạch, huyệt, luân xa...
Không gian theo quan điểm toàn đồ phù hợp với chứng nghiệm về không gian trong thiền định sâu xa, như đạo sư Govinda đã nhận xét trong tác phẩm nổi tiếng Con đường mây trắng: "Và khi nói tới cảm giác về không gian trong thiền định thì ở đây ta có một kích thước hoàn toàn khác về không gian. Trong sự chứng thực về không gian này, cái trước cái sau trở thành những cái đồng thời, những cái cạnh nhau trong không gian. Rồi cái đó cũng không tồn tại mà thành một thể liên tục sinh động trong đó bao gồm cả không gian và thời gian".
Các Trường phát sinh Hình thái
Rupert Sheldrake - tác giả cuốn sách Một khoa học mới về sự sống đã đưa ra ý kiến là mọi hệ thống được điều chỉnh không chỉ bằng năng lượng đã biết và các yếu tố vật chất mà còn bằng những trường cấu tạo vô hình. Những trường này là nguyên nhân bởi vì chúng làm những sơ đồ cho hình thái ứng xử. Những trường hợp này không có năng lượng, với nghĩa thông thường của từ, bởi vì tác động của chúng vượt qua những hàng rào thời gian và không gian thường vẫn gắn với năng lượng. Nghĩa là tác động của chúng lên chúng đúng là mạnh bằng nhau khi ở xa cũng như khi ở sát bên.
Theo giả thiết này, bất cứ lúc nào một thành viên của một loại động vật học được một ứng xử mới thì Trường nguyên nhấn của loài đó có thay đổi ít nhiều "Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ". Nếu ứng xử này được lặp đi lặp lại trong thời gian đủ lâu thì "cộng hưởng hình thái" của nó tác động lên toàn bộ loài động vật đó Sheldrake gọi ma trận vô hình này là Trường phát sinh Hình thái (morphogenetic field). Tác động của từ trường này bao gồm cả "tác động từ xa" trong cả không gian và thời gian (có lẽ sự e ngại loài người của các loài hổ, báo, sư tử... có nguyên nhân từ loại trường này). Hơn cả hình thức vốn xác định được bằng các quy luật vật lý nằm ngoài thời gian, nó tùy thuộc vào cộng hưởng hình thái vượt qua thời gian. Điều đó có nghĩa là các trường hình thái có thể lan truyền qua không gian và thời gian và các sự kiện trong quá khứ có thể ảnh hưởng đến các sự kiện khác ở bất cứ nơi nào (có lẽ sóng tư duy trong môi trường Chân không tuyệt đối là tác nhân của sự tác động này). Một ví dụ về điều này đã được Lyall Watson cho thấy trong cuốn sách "Dòng đời sinh học của ý thức" trong đó ông mô tả cái mà hiện nay người ta gọi đại chúng là "Nguồn gốc con khỉ thứ 100". Watson thấy rằng một thời gian sau khi một tốp khỉ học được một ứng xử mới thì bỗng nhiên một số khỉ khác sống trên những hòn đảo khác cũng biết ứng xử như thế trong khi không hề có trao đổi thông tin bình thường giữa chúng và tốp khỉ nói trên. TS. David Bohm trong tạp chí Revision nói rõ rằng điều tương tự cũng thực sự xảy ra đối với vật lý lượng tử. Ví dụ thí nghiệm Einstein Posolsky-Rosen đã cho thấy rằng vẫn có những liên kết không phải tại chỗ hay những liên kết siêu tinh vi của các hạt tế vi ở xa nhau. Như vậy ắt là có sự nguyên vẹn hệ thống đến nỗi không thể quy trường cấu tạo hạt riêng rẽ, mà chỉ quy được cho tổng thể. Do đó điều gì sẽ xảy ra cho các hạt ở xa nhau khi có thể tác động lên trường các hạt khác Bohm nói rằng "khái niệm các định luật phi thời gian chi phối vũ trụ dường như không đứng vững mà bản thân thời gian là một phần tất yếu của sự phát triển".
Thực tại đa chiều (theo Bàn tay ánh sáng)
Một nhà vật lý tên là Jack Sarfatti - trong công trình Các hệ thông năng lượng tâm lý - đưa ra giả thuyết rằng phương thức mối liên kết "Siêu sáng" có thể tồn tại là thông qua một bình diện cao hơn thực tại. Ông gợi ý rằng các "vật" liên kết với nhau hơn trên một bình diện cao hơn thực tại, "lên trên" của cái ta, và những vật nằm trong bình diện đó liên kết với nhau thông qua một bình diện cao hơn nữa. Nhờ đạt tới bình diện cao hơn mà ta có thể có khả năng hiểu được mối liên kết tức thời hoạt động như thế nào.
Khám phá mới về sự tác động màu nhiệm của từ trường
Gần đây, các thí nghiệm được tiến hành ở Trung tâm nghiên cứu Khoa học Novôxibia (Nga) dưới sự chỉ đạo của Viện sĩ V.Kaznachev dẫn tới những khám phá mới về tính chất kỳ diệu của từ trường đối với cơ thể sống trên trái đất. Các thí nghiệm đó chứng tỏ trong các cơ thể sống tồn tại một hình thái sống khác gọi là Hình thái từ trường. Để phân biệt sự khác nhau giữa hình thái từ trường với hình thái sinh học thông thường các nhà khoa học đã thiết kế một camera đặc biệt có tác dụng tách ly từ trường, trong đó có thể giảm cường độ từ trường của Trái đất hàng trăm nghìn lần, thậm chí hàng triệu lần.
Các nhà khoa học làm thí nghiệm đưa các tế bào vật chất sống vào trong camera không cách ly từ trường và họ phát hiện thấy các cấu trúc từ trường của tế bào biến mất, tiếp đến là các protein cũng bị chết. ở thế hệ thứ 4 hay thứ 5, các tế bào không còn thể hiện tính chất đặc trưng của trường sinh học vẫn tồn tại xung quanh cơ thể sống. Còn cấu trúc thông thường của tế bào trong camera cách ly từ trường có thể tồn tại đến thế hệ thứ 10 hoặc thứ 12.
Tác động của yếu tố đó với các hệ thống sinh học lớn, như máu các cơ thể sống chẳng hạn, lại còn rõ ràng hơn. Thí dụ, con người khi ngồi trong camera cách ly từ trường trong khoảng 20 - 30 phút, trong não của họ diễn ra quá trình thay đổi không thể đảo ngược được.
Nguyên nhân ở đây có thể là trong khoảng thời gian ngắn trong camera cách ly từ trường cũng có tác dụng tốt đối với tâm sinh lý con người. ở họ có sự phát triển có tính chất bùng nổ về trí tuệ. Thí dụ, trẻ em đã qua "xử lý” trong camera này bỗng nhiên có những khả năng kỳ lạ. Một em bé không biết vẽ, đột nhiên có khả năng vẽ như một họa sĩ. Một trẻ khác thường ít nói và viết chậm chạp đột nhiên có khả năng làm thơ và nói năng hoạt bát hơn. Bản thân Viện sĩ V.Kaznachev cũng đã từng tự làm thí nghiệm trong camera cách ly từ trường. ông nhận thấy trong con người ông diễn ra những thay đổi kỳ lạ. Trong trí tưởng tượng của ông tự nhiên xuất hiện hình ảnh mới lạ và những ý tưởng siêu phàm mà trước đây ông không có. Một số bạn bè của ông sau một thời gian ngắn ngồi trong camera cách ly từ trường cũng cảm thấy những thay đổi tương tự. Kết quả nghiên cứu của Viện sĩ V.Kaznachev được củng cố thêm bằng kết quả gần đây của các nhà khoa học của Viện nghiên cứu Năng lượng nguyên tử Đúp-na (Nga) và Viện nghiên cứu Sinh học ở Kiep (Ukraina). Họ đã làm thí nghiệm với nhiều hạt giống đã qua xử lý một thời gian trong camera cách ly từ trường. Các camera đó đã làm giảm cường độ từ trường Trái đất xuống 1000 lần. Các camera cách ly từ trường đã làm chậm sự phát triển của hạt giống xuống 33% đến 41%. Trong đó có 1/3 tế bào được phân chia. Hiệu ứng xảy ra là do quá trình trao đổi muối và nước bị ngừng trệ, tế bào bị dãn nở do không có canxi và mitonhondri - một kiểu nhà máy điện nhỏ xíu cung cấp năng lượng cho tế bào.
Loài chuột được đem đi làm thí nghiệm cũng để lại những kết quả khá thú vị. Chúng được chia làm hai loại: Một loại để trong camera cách ly trong suốt 90 ngày. Loại thứ hai để trong camera cách ly 8 giờ/ngày và 5 ngày/tuần trong suốt 90 ngày. Phản ứng của loài chuột cũng giống như sự phát triển đột biến các khả năng của con người sau khi ngồi một thời gian ngắn trong camera cách ly từ trường.
Như vậy, đối với động vật cũng như đối với con người, việc cách ly khỏi từ trường Trái đất để lại một dấu ấn không thể xóa được. Đây là một vấn đề khoa học cần được nghiên cứu đầy đủ. Hiện nay các công trình đó đang được tiếp tục và Giáo sư, Tiến sĩ Iuri Grigorep làm việc tại một Viện nghiên cứu Sinh học - Vật lý đã thu được kết quả đầu tiên chứng tỏ nếu con người hằng ngày có mặt trong môi trường thiếu từ trường sẽ có thay đổi xấu trong hệ thần kinh như dễ xúc động, dễ rơi vào tình trạng xung đột. Ông cũng cho rằng cần phải đặc biệt chú ý đến sự nhạy cảm của phôi và hệ thống miễn dịch đối với các yếu tố từ trường trong môi trường sinh thái.
Về những hiệu quả tác động xấu của môi trường, trong đó từ trường Trái đất bị giảm, đối với con người là một vấn đề cần được nghiên cứu một cách thích đáng để bảo vệ sức khỏe của những hoạt động trong môi trường bị cách ly khỏi từ trường Trái đất. Đối với những người này cần phải có thời gian thích đáng tiếp xúc với khí trời tự nhiên sau giờ làm việc và phải có chế độ dinh dưỡng hợp lý để củng cố hệ thống miễn dịch. (Trích từ KCM-11-1998. LMQ dịch từ Priroda I Chelovec, N.3.1998).
Năng lượng hấp dẫn và nền văn minh "hấp dẫn"
Từ thời Niutơn (Newton) với sự phát minh ra định luật Vạn vật hấp dẫn, biết bao trí tuệ khoa học theo đuổi tham vọng tìm hiểu bí mật của lực hấp dẫn. Một số người giải thịch lực hấp dẫn là lực điện, một số khác lại cho đó là lực từ. Một loại ý kiến thứ ba lại cho rằng đó là lực cơ học. Gần đây kỹ sư người Nga tên là Alekxây Miteshov đưa ra một giả thiết cho rằng các vật hút nhau bởi lực hấp dẫn bao gồm cả ba thành phần: điện lực, từ lực và các cơ lực. Với quan niệm mới đó ông đã thành công trong việc sáng chế ra các phương pháp khai thác năng lượng hấp dẫn và mở ra triển vọng tạo được nguồn năng lượng vô tận trong tương lai. Sáng chế của Miteshov dựa trên cơ sở hiệu ứng áp điện, một hiệu ứng kết hợp lực điện và lực từ. Nếu tác động một lực từ lên tinh thể thạch anh trong tinh thể xuất hiện điện thế có thể tạo ra dòng điện. Trong thực tế hiệu ứng áp điện đã được sử dụng rộng rãi trong đời sống hằng ngày. Thí dụ đơn giản và thông thường nhất là sử dụng hiệu ứng áp điện tạo ra tia lửa điện dùng trong bếp ga, bật lửa ga.
Nhóm các nhà kỹ thuật do kỹ sư Miteshov đứng đầu đã sáng chế ra phương pháp sử dụng vật liệu áp điện gắn vào bánh xe ô tô hoặc bánh xe tàu hỏa đế tạo ra dòng điện có thể cung cấp năng lượng đủ để duy trì chuyển động cho chính bản thân các phương tiện đó. Đồng thời họ đã sáng chế ra các loại ắc quy siêu mạnh để tích trữ điện năng khởi động ô tô và tàu hỏa. Khi ô tô và tàu hỏa đã chuyển động, dưới tác dụng của trọng lực, chất áp điện sẽ tạo ra dòng điện để cung cấp cho các động cơ điện đẩy ô tô và đoàn tàu tiếp tục chuyển động. Các ắc quy công suất siêu mạnh và gọn nhẹ sẽ tích trữ năng lượng dư thừa. Với các bình ắc quy gọn nhẹ có kích thước tương đương với chiếc cặp xách tay có thể tích trữ năng lượng đủ để dùng cho một căn hộ nhiều phòng trong vòng một tháng, kể cả việc sưởi ấm mùa đông. Sáng chế của nhóm kỹ sư Miteshov tạo ra những ắc quy có điện dung lớn gấp hàng nghìn lần so với ắc quy thông thường và có thời gian hoạt động an toàn trong vòng 25 năm.
Người sáng chế ra loại ắc quy đó là ông Khortov thuộc Viện nghiên cứu Khoa học - Kỹ thuật ở Nga. Ắc quy của ông đã được bán ra trên thị trường. Theo dự báo, trong tương lai, toàn bộ các phương tiện giao thông vận tải bánh lốp và bánh sắt sẽ vừa chuyển sang chế độ tự động cung cấp năng lượng để chuyển động, vừa tạo ra nguồn dự trữ để cung cấp cho toàn bộ nền công nghiệp. Mạng lưới giao thông vận tải sẽ có thêm một chức năng mới đó là sản xuất điện năng. Mạng lưới đường sắt lớn nhất thế giới của nước Nga có thể đảm bảo năng lượng cho quốc gia rộng lớn này. Sẽ có các đoàn tàu và ô tô chuyên dụng làm nhiệm vụ sản xuất điện năng.
Theo nhận xét của Miteshov, năng lượng hấp dẫn còn mở ra một khả năng hoàn toàn mới trong công nghệ truyền thông và thậm chí còn mở ra một kỷ nguyên mới gọi là kỷ nguyên của Nền văn minh hấp dẫn. Nền văn minh này sẽ thay thế nền văn minh thông tin hiện nay vẫn đang đe dọa loài người bởi nền bức xạ điện từ rất lớn đang lấp đầy môi trường và tác động xấu đến sức khỏe con người. Trong nền văn minh hấp dẫn thông tin được truyền đi nhờ sóng hấp dẫn (hay là sóng tư duy - HVK). Đó là giao động cực kỳ yếu của lực trọng trường với độ lớn nhỏ hơn hàng tỉ lần so với bản thân trọng lượng cơ thể con người. Từ trước tới nay, các nhà khoa học vẫn tìm kiếm sóng hấp dẫn nhưng thất bại vì quan niệm chưa đầy đủ về lực hấp dẫn. Về thực chất, sóng hấp dẫn là tổng hợp các dao động cơ học và mọi dao động khác. Thí dụ khi ta đấm mạnh bàn tay lên mặt bàn, dao động cơ học được truyền xuống mặt đất và có thể tác động trên một khoảng cách rất xa bằng một cảm biến siêu nhạy cơ thể ghi nhận được dao động đó ở cự ly cực lớn. Hiện nay người ta đã chế tạo được cái máy đo cơ thể ghi nhận được bước chân của con người từ xa hàng trăm mét. Sắp tới độ nhạy của các thiết bị đo cơ thể tăng lên hàng nghìn lần. Dao động của các phân tử không khí cũng tạo nên những thay đổi của lực hấp dẫn và cơ thể được sử dụng để truyền thông tin đến một khoảng cách tùy ý. Ngoài ra, thông tin có thể truyền qua chân không nhờ sóng microlepton vốn là một trong những thành phần của sóng hấp dẫn.
Bằng các chất áp điện cũng có thể tạo ra các máy thu phát sóng hấp dẫn chỉ bằng cỡ hạt đậu để hai người ở cách xa nhau trò chuyện với nhau như thể dối diện với nhau. Độ nhạy của các máy đo đó lớn đến mức có thể ghi nhận được áp lực của sóng tư duy phát ra từ bộ nãocon người. Sóng tư duy có thể tạo ra các dao động cơ học và dao động microlepton. Nếu thành phần dao động cơ học có thể bị suy giảm khi truyền qua khoảng cách lớn thì sóng microlepton nhờ hấp thụ năng lượng từ môi trường xung quanh có thể truyền đi từ khoảng cách rất xa mà không bị suy giảm. Cơ chế này giống với cơ chế chuyển động của các photon ánh sáng khi vượt qua khoảng cách xuyên vũ trụ. Theo đánh giá của kỹ sư Miteshov, một khi thiết bị thu phát sóng hấp dẫn được chế tạo thì loài người có thể giao tiếp với nhau không chỉ bằng lời nói, chữ viết mà cả bằng sóng tư duy. Và lúc đó thì sẽ không còn một bí mật nào được giữ kín trong đầu. Sẽ xuất hiện một nền văn minh thân thiện, bởi lẽ bất kỳ ai có ý định làm điều ác thì cũng sẽ bị phát hiện từ trong ý nghĩ. Đó là thành tựu cao cả về mặt đạo đức của nền văn minh hấp dẫn. LMQ (Theo Con người và thiên nhiên, N.l.1998. Bài đăng trong Tạp chí Khoa học - Công nghệ - Môi trường 6/1998). (Xem tiếp) |