CHUYÊN MỤC
ĐỒNG TÂM
LỊCH ÂM DƯƠNG
LIÊN KẾT WEBSITE
Thông tin khoa học cơ bản » THƯ VIỆN TOTHA  » Chi tiết
 
TỬ THƯ TÂY TẠNG tt 1
Bardo Thoštrošl là một trong một loạt các bộ giáo huấn chỉ dẫn sáu cách giải thoát : giải thoát thông qua sự nghe ; giải thoát thông qua đeo, mặc ; giải thoát thông qua sự thấy ; giải thoát thông qua nhớ tưởng ; giải thoát thông qua nếm vị ; giải thoát thông qua xúc chạm...

              Đại Giải Thoát 
Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo
CHÁNH VĂN
 


Kính lễ Chư Thầy tôn kính, là Ba Thân :
Đức A Di Đà Phật, Vô Lượng Quang, là Pháp Thân,
Chư Thần Bình Yên và Xung Nộ trong Bộ Hoa Sen, là Báo Thân,
Đức Liên Hoa Sanh, Người Che Chở cho Chúng sanh, là Hóa Thâ
n. ÷

“Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này – phương tiện giải thoát trong giai đoạn Bardo cho các hành giả trung căn – gồm có ba phần : phần dẫn nhập, phần chủ đề chính, và phần kết luận. ÷

Trước hết là phần dẫn nhập, phương tiện giải thoát cho loài người. Trước tiên, người* [01]cần nghiên cứu những lời giáo huấn, chúng chắc chắn sẽ giải thoát cho ai có thượng căn ; nhưng nếu những giáo huấn đó không tác dụng, người phải thực hiện phép chuyển di tâm thức (the ejection of consciousness) nó sẽ giúp giải thoát một cách tự nhiên lúc vừa nghĩ đến nó khi ở trong giai đoạn bardo ngay lúc đối diện cái chết. Cách này sẽ chắc chắn giải thoát cho các hành giả (yogins) trung căn ; nhưng nếu cách này không tác dụng, người phải cố gắng tận lực trong phép “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” (Great Liberation through Hearing) khi ở trong giai đoạn bardo Pháp Tánh (bardo of dharmata, Cheunyi bardo). ÷

Do đó, trước hết hành giả cần nên theo dõi diễn biến các dấu hiệu của cái chết chiếu theo chỉ dẫn của “Sự Giải Thoát Tự Nhiên của các Dấu Hiệu của cái Chết”, và khi các dấu hiệu đó chắc chắn đã hoàn tất, hành giả cần thực hiện phép chuyển di tâm thức, nó giúp giải thoát một cách tự nhiên ngay khi nó được nghĩ tới. Nếu sự chuyển di có hiệu quả thì không cần đọc bộ giáo huấn “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”, nhưng nếu không được, thì bộ sách Giải Thoát này nên được đọc một cách rõ ràng, chính xác, sát bên cạnh tử thi. ÷

Nếu tử thi không có tại chỗ, người phải ngồi trên giường hay ghế mà người chết từng nằm hay ngồi, và trong khi công bố quyền năng của chân lý – người nên cầu vong linh người chết và đọc trong khi đó tưởng tượng người chết ngồi đối diện và đang nghe đọc. Vào lúc này không nên có những tiếng than khóc nên các họ hàng phải làm thinh, nín khóc. Nếu tử thi có tại chỗ, trong suốt thời gian từ lúc tắt thở đến khi mạch (ở động mạch) ngưng đập, vị thầy (guru) hay một đạo huynh, người mà người chết rất thương yêu tin tưởng, nên đọc bộ giáo huấn “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này, đọc gần sát lỗ tai người chết. ÷

Giáo lý “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”. Nên trần thiết một nghi lễ cúng dường Tam Bảo[02]* một cách chu đáo nếu có lễ vật, nhưng nếu không có lễ vật, người nên dâng cúng những lễ vật có sẵn, rồi hãy quán tưởng những lễ vật còn lại vô lượng vô biên. Người nên đọc từ ba đến bảy lần bài kệ : “Cầu Nguyện chư Phật chư Bồ Tát Cứu Thoát” (Inspiration – Prayer Calling on the Buddhas and Bodisattvas for Rescue) sau đó đọc lớn tiếng bài “Cầu Nguyện để Giải Thoát Khỏi Lối Đi Nguy Hiểm của Bardo” (Inspiration – Prayer for Deliverance from the Dangerous Pathway Verses of the Bardo) và bài “Những Câu Kệ Chánh về Sáu Bardo” (Main Verses of the Bardo). Sau đó, đọc bộ giáo huấn “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” từ ba đến bảy lần. ÷

Bộ giáo huấn có ba phần : phần chỉ cho thấy linh quang (luminosity) trong Bardo vào lúc đối diện cái chết, lời nhắc nhớ lớn về sự chỉ bày trong giai đoạn Bardo Pháp tánh, và những hướng dẫn để đóng lại lối vào mẫu thai trong bardo trở thành. ÷

Trước hết là phần chỉ cho thấy linh quang trong Bardo vào lúc đối diện cái chết. Bằng cách nghe đọc bộ sách này, tất cả các hạng người bình thường, những người đã học được giáo pháp nhưng chưa nhận ra dù họ sáng suốt, hay những người nhận ra được, nhưng tu tập ít, tất cả họ sẽ nhận ra được linh quang căn bản và bỏ qua kinh nghiệm bardo để trực tiếp đạt đến Pháp thân vô sanh. ÷

Phương pháp khai thị (instruction) : tốt nhất là vị bổn sư chính, người mà người chết đã học pháp, nếu không là một sư huynh mà người chết đã cùng phát nguyện giới thiêng liêng (samaya vow) hay một huynh đệ cùng dòng tu. Nếu không có những người này, thì nên chọn một người có thể đọc lớn, rõ, chính xác và đọc bộ này nhiều lần. Được như vậy, người chết sẽ được nhắc để nhớ lại những gì mà vị thầy đã chỉ cho ông ta thấy, và chắc chắn không nghi ngờ nào cả, ông ta sẽ lập tức nhận ra linh quang căn bản và ông ta sẽ được giải thoát. ÷

Thời gian khai thị : khi sự thở đã ngưng, khí (prana)[03]* được rút vào kinh trí huệ trung ương (wisdom-dhuti)[04]** và linh quang thoát khỏi những phức tạp phiền nhiễu sẽ chiếu sáng rõ trong thức (consciousness). Nếu khí bị đi sai đường và thoát vào trong hai kinh nhánh (nadis) bên trái và bên phải thì trạng thái bardo xuất hiện tức thì, thế nên bộ giáo huấn cần được đọc trước khi khí thoát vào kinh nhánh bên phải và bên trái. Từ sau khi ngưng thở, thời gian mà nhịp đập bên trong vẫn còn hoạt động bằng thời gian một bữa ăn. ÷

Phương pháp khai thị : khi hơi thở sắp sửa ngưng, tốt nhất là thực hiện phép chuyển di tâm thức (pho-ba) cho có hiệu quả, nhưng nếu việc đó không kết quả, người phải nên đọc những lời này :

“Này thiện nam (tín nữ) (tên), bây giờ đã tới lúc con (hay ngươi, v.v... tùy cách xưng hô) phải tìm con đường. Ngay khi hơi thở của con ngừng lại, trước mặt con xuất hiện linh quang căn bản của bardo đầu tiên, cái mà vị thầy đã từng chỉ cho con. Đó là pháp tánh (dharmata) mở suốt và trống rỗng như hư không, tánh rỗng rang quang minh, tâm trần trụi thanh tịnh không có tâm điểm cũng không có ngoại vi. Con hãy nhận ra và an trú trong trạng thái đó và đồng thời Thầy sẽ chỉ cho con thấy.” ÷

Chắc chắn điều này sẽ được in sâu vào tâm nếu được nói vào lỗ tai câu trên cho tới khi ông ta ngưng thở. Rồi khi biết đã ngưng thở, người hãy đặt ông ta nằm nghiêng bên phải như thế nằm sư tử và ấn mạnh vào hai động mạch đang đập – nó đưa tới giấc ngủ – cho đến khi hai động mạch đó ngưng đập. Rồi thì, khí (prana) đã vào trong kinh trung ương (dhuti) sẽ không thể quay trở lại, và chắc chắn sẽ đi lên thông qua lỗ thóp trên đỉnh đầu (brahmarandhra).[05]*

Giờ đây cần đọc lên lời chỉ dẫn. Vào lúc này, bardo đầu tiên – người ta gọi là linh quang pháp tánh (luminosity of dharmata), tức là tâm vốn nguyên vẹn không méo mó (undis-torted mind) của pháp thân, sẽ hiển lộ trong tâm của mọi chúng sanh. Người thường thì gọi trạng thái này là không có ý thức bởi vì khí chìm trong kinh trung ương (avadhuti hay dhuti) trong suốt quãng thời gian từ lúc ngưng thở đến khi nhịp động mạch ngưng đập. Quãng thời gian này dài ngắn không nhất định, tùy thuộc vào điều kiện tâm linh và giai đoạn tu hành Du già (yogic training). Nó sẽ kéo dài đối với những ai đã tu tập nhiều, đã ổn định trong phép tu thiền an định (samatha) và nhạy bén. Khi chỉ bày cho người đã tu được như vậy, người nên lập đi lập lại lời chỉ dẫn cho đến khi chất lỏng màu lợt (pus) chảy rỉ ra ở chỗ các khiếu của thân người chết. Đối với những người độc ác, lạnh lùng thì khoảng thời gian đó không lâu hơn một cái khảy móng tay, nhưng trong một số người thì quãng thời gian đó kéo dài bằng một bữa ăn. Như đa số kinh (sutra) và tantra dạy rằng thời gian không có ý thức đó kéo dài bốn ngày rưỡi, nên nói chung, người phải nên ráng hết sức chỉ bày cho thấy được linh quang trong quãng thời gian đó. ÷

Phương pháp khai thị : nếu người chết có khả năng, người ấy sẽ tự thực hiện theo như những lời chỉ dạy đã học được trước kia. Nhưng nếu ông ta không thể tự làm được, thì vị thầy hay đệ tử của thầy hay một sư huynh và rất thân, sẽ ngồi sát bên cạnh ông ta và đọc lớn rõ ràng diễn biến thứ lớp các dấu hiệu cái chết như sau : “Giờ đang hiện diện dấu hiệu đất chuyển thành ra nước, nước chuyển thành nhiệt, nhiệt chuyển thành không khí, không khí chuyển thành thức...” Khi tiến trình này sắp hoàn tất, ông ta nên được thúc đẩy để nuôi dưỡng một thái độ như sau : “Này thiện nam tín nữ” nếu người chết là một vị thầy thì : “Thưa đại sư (guru)” rồi đọc tiếp : “chớ để các niệm của mình đi lang thang.” Hãy đọc nhỏ điều này vào lỗ tai ông ta. Nếu người chết là huynh đệ đồng môn hay một người khác, người phải đọc tên ông ta cùng những lời sau : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), sự việc gọi là chết giờ đây đã xảy đến, cho nên con nên nuôi giữ thái độ như thế này : ‘Tôi đã tới thời điểm cái chết, cho nên giờ đây thông qua cái chết này tôi sẽ chỉ nuôi dưỡng thái độ có được trạng thái tâm giác ngộ (Bồ đề tâm), có được đại từ đại bi, đạt tới sự giác ngộ toàn triệt vì lợi ích của chúng sanh hữu tình vô biên như hư không. Với thái độ này, vào thời điểm đặc biệt này vì lợi ích của chúng sanh hữu tình, tôi sẽ nhận ra linh quang của cái chết (luminosity of death) chính là Pháp thân (dharmakaya) và khi đạt tới sự chứng ngộ tối thượng của Đại Ấn[06]* trong trạng thái đó, tôi sẽ hành động vì sự tốt lành của tất cả chúng sanh. Nếu tôi không đạt được Đại Ấn đó, tôi sẽ nhận ra trạng thái bardo như chính nó là và khi đạt tới Đại Ấn không thể phân chia trong bardo, tôi sẽ hành động vì điều tốt lành của tất cả chúng sanh vô biên như hư không, bằng đủ các cách thức nào có thể có ảnh hưởng đến họ.’ Nhất tâm với thái độ này con nên nhớ và thực hành bất cứ giáo lý thiền định nào mà con đã được giảng trong quá khứ.” ÷

Những lời nói trên phải được đọc rõ ràng từng chữ với đôi môi kề sát lỗ tai ông ta, sao cho để có thể nhắc ông ta nhớ lại sự thực hành mà không để ông ta lạc mất sự chú tâm dù chỉ một giây. Rồi khi hơi thở hoàn toàn ngưng, người phải nên ấn mạnh động mạch dẫn tới giấc ngủ, và nhắc cho nhớ lại những lời này như sau (nếu người chết là vị thầy hay huynh đệ cao hơn) : ÷

“Thưa Đại Sư (hay sư huynh) giờ đây linh quang cơ bản đang chiếu sáng trước Thầy, Thầy hãy nhận ra nó và an trú trong sự thực hành.” ÷

Nếu người chết là những người khác, người nên khai thị như sau : ÷

“Này thiện nam (tín nữ) (tên), hãy nghe đây. Bây giờ, linh quang thanh tịnh của pháp tánh đang chiếu sáng trước con, con hãy nhận ra nó. Này thiện nam (tín nữ), ngay thời điểm này trạng thái tâm của con vốn là tánh Không thanh tịnh, không có bản chất nào cả, không vật chất cũng không tính chất chẳng hạn như màu sắc, mà thuần chỉ tánh Không thanh tịnh, đây là pháp tánh, tức Phật Mẫu Samantabhadri. Nhưng trạng thái tâm này không phải là ‘không trơ’ ; nó vô chướng ngại, sáng ngời, thanh tịnh và sinh động ; tâm này là Phật nguyên thủy Samantabhadra.[07]* Bản chất của tâm con là tánh Không, không có bất kỳ chất liệu nào, đồng thời sinh động và quang minh, cả hai điều đó không thể tách rời nhau ; đây là Pháp thân Phật. Trong những tâm của con thì tâm này là tánh Không và linh quang hợp nhất không thể tách rời trong hình thức một khối ánh sáng vĩ đại, không sanh không diệt, bởi thế đó là Phật của Ánh sáng Bất tử (Buddha of Immortal Light). Tất cả sự cần thiết là nhận ra điều này. Khi con thấu rõ rằng bản tánh thanh tịnh này của tâm con chính là Phật thì nhìn vào trong tự tâm có nghĩa là đang an trú trong tâm Phật (buddha-mind).” ÷

Nên lập đi lập lại đoạn khai thị này ba đến bảy lần, đọc rõ ràng chính xác từng lời. Thứ nhất nó sẽ nhắc cho ông ta nhớ lại những gì mà trước đây vị Thầy đã chỉ bày cho ông ta ; thứ hai, ông ta sẽ nhận biết tâm trần trụi của riêng mình chính là linh quang ; thứ ba, khi đã nhận biết như vậy, ông ta sẽ trở nên hợp nhất một cách không thể tách rời với Pháp thân và chắc chắn ông ta đạt giải thoát. ÷

Nếu ông ta nhận ra linh quang đầu tiên, ông ta sẽ được giải thoát. Nhưng nếu sợ rằng ông ta đã không nhận ra linh quang đầu tiên đó, thì cái gọi là linh quang thứ hai sẽ chiếu sáng, và nó xuất hiện sau hơi thở đã ngưng một thời gian hơn một bữa ăn một chút. ÷

Tùy theo nghiệp thiện hay nghiệp ác, khí (prana) thoát đi vào trong kinh năng lực (nadi) bên trái hay bên phải và rồi đi ra ngoài thông qua các khiếu của thân, và thức bỗng trở nên minh bạch. Nói rằng thời gian linh quang thứ hai chiếu sáng kéo dài như một bữa ăn là tùy thuộc vào việc ông ta có bén nhạy, nhẹ vía hay nặng vía (không bén nhạy), và cũng tùy thuộc ông ta đã tu tập hay không. Rồi sau đó, thức của ông ta xuất ra, ông ta phân vân không biết mình bị chết hay không, ông ta sẽ thấy họ hàng đã tụ họp trước mặt mình và nghe tiếng khóc của họ. ÷

Suốt thời gian này, trong khi chưa xuất hiện những phóng tưởng mê lầm và dữ dội của nghiệp, trong khi chưa xảy ra những nỗi kinh hãi do Thần Chết đem tới, thì rất cần sự hướng dẫn khai thị lúc này đây. Ngay đây có sự đặc biệt khác nhau giữa sự thực hành hoàn tất và thực hành quán tưởng (complete practice and visualisation pratice).[08]* Nếu người chết đã tu tập pháp thực hành hoàn tất, người phải nên gọi tên ông ta ba lần và đọc đi đọc lại những lời khai thị chỉ bày linh quang như trên. Nếu người chết đang thực hành quán tưởng, người phải đọc lớn bài nghi thức thực hành và sự mô tả về Yidam[09]** của ông ta và nhắc ông ta nhớ lại bằng những lời như sau : “Này thiện nam (tín nữ), con hãy thiền định về yidam của con, và đừng bị phân tâm. Hãy tập trung cao độ vào yidam của con. Hãy quán tưởng yidam giống như một hình tướng mà không có thể chất, giống như con thấy mặt trăng trên mặt nước ; đừng quán tưởng Yidam dưới một hình tướng cụ thể cứng chắc.” Nếu người chết là người bình thường, người nên chỉ cho ông ta thấy bằng cách nói như sau : “Con hãy thiền định về đức Đại Bi Vương Quán Thế Âm Bồ tát.” ÷

Không có gì nghi ngờ rằng, những ai đã không nhận ra bardo, thì sẽ nắm được nó khi nghe những chỉ dẫn này. Nhưng nếu họ đã không thuần thục trong thiền định, dù cho họ được thầy chỉ bày cho khi còn sống, thì họ sẽ không có khả năng tự mình nhận rõ trạng thái bardo, do đó vị thầy hay sư huynh phải khai thị cho rõ ra. Và rất cần khai thị hướng dẫn cho những ai đã không thể nhớ được trong giai đoạn bardo ở thời điểm đối diện cái chết bởi vì bệnh tình nghiêm trọng làm cho họ mê lầm, cho dù trước đó khi còn khỏe mạnh họ đã thuần thục trong thiền định. Lại còn cực kỳ cần thiết khai thị cho những người, mặc dù trước đó đã rất thuần thục trong thiền định theo con đường này, nhưng họ lại phá bỏ giới luật, hay sự hành trì samaya đã thoái hóa nên giờ đây sau khi chết họ có thể đọa xuống những cõi giới thấp. ÷

Điều tốt nhất là ông ta thấu hiểu được suốt trong bardo thứ nhất, nhưng nếu ông ta không được như vậy, thì giờ đây bằng sự nhắc nhở khi đọc lời khai thị trong bardo thứ hai, sự “quán chiếu thấu suốt” (insight) của ông ta sẽ được thức tỉnh và ông ta sẽ được giải thoát. Suốt trong bardo thứ hai, thức của ông ta – mà trước đó đã không biết rằng ông ta bị chết hay không – giờ đây bất thình lình trở nên minh bạch ; thức này được gọi là thân huyễn thanh tịnh. Ngay lúc này, nếu ông ta hiểu được lời dạy này thì pháp tánh mẹ và pháp tánh con gặp nhau và ông ta sẽ không còn bị nghiệp khống chế. Đích thị y như ánh sáng mặt trời xua tan bóng tối, ở đây nghiệp lực sẽ bị linh quang của con đường (bardo) xua tan đi, và sự giải thoát sẽ được đạt tới. Điều này được gọi là bardo thứ hai, sáng ngời trước mặt thân tinh thần và thức sẽ có khả năng nghe được trở lại y như trước đây. Lúc này đây nếu ông ta hiểu được lời khai thị, thì mục đích của lời khai thị đã được hoàn tất, và vì các phóng tưởng mê lầm của nghiệp chưa xuất hiện, cho nên ông ta có khả năng tự mình định hướng tới bất kỳ nơi nào. ÷

Với cách này người chết sẽ được giải thoát bằng cách nhận ra linh quang xuất hiện suốt trong bardo thứ hai, cho dù đã không nhận ra linh quang cơ bản. Nhưng nếu ông ta vẫn không được giải thoát bởi bardo thứ hai, bây giờ cái gọi là bardo thứ ba, tức bardo pháp tánh (bardo of dharmata) hiện ra. Các phóng tưởng mê lầm của nghiệp sẽ xuất hiện trong bardo thứ ba cho nên điều quan trọng nhất là vào lúc này phải đọc lời chỉ bày vĩ đại của bardo pháp tánh bởi vì nó rất có ích lợi và rất mãnh liệt. ÷

Lúc này thân nhân đang than khóc, không có phần của người chết trong bữa ăn của gia đình, quần áo của ông ta bị mang đi, giường bị tháo rời ra, vân vân. Ông ta có thể trông thấy họ nhưng họ không thấy ông ta, ông ta có thể nghe họ gọi tên ông ta nhưng họ không thể nghe ông ta gọi họ, nên ông ta bỏ đi trong tuyệt vọng. Có ba hiện tượng sẽ xuất hiện lúc này : những âm thanh, ánh sáng màu, và các chùm tia sáng ; và với nỗi sợ, nỗi kinh hoàng, sự luống cuống, ông ta sẽ càng lúc càng yếu và kiệt quệ cho nên vào lúc này cần đọc lời chỉ bày vĩ đại về bardo pháp tánh. Người hãy gọi tên người chết và đọc rành mạch những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận, không được phân tán. Có sáu trạng thái bardo : bardo của lúc sanh ra đời, bardo của lúc nằm mộng, bardo của thiền an định[10]* (samadhi-meditation), bardo của lúc đối diện cái chết, bardo pháp tánh và bardo thác sanh (bardo of becoming). Này thiện nam (tín nữ), con sẽ kinh nghiệm ba trạng thái bardo : bardo của lúc đối diện cái chết, bardo pháp tánh và bardo thác sanh. Trong ba bardo này, linh quang pháp tánh trong bardo vào lúc đối diện cái chết đã chiếu sáng cho tới ngày hôm qua, nhưng con đã không nhận ra nó, nên con đã phải lang thang tới nơi đây. Giờ đây, con sẽ kinh nghiệm bardo pháp tánh và bardo thác sanh, nên con hãy nhận ra cái ta sắp chỉ cho con thấy và không được phân tán. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), giờ đây, cái gọi là chết đã đến. Không phải chỉ có một mình con rời bỏ thế giới này, điều đó xảy ra cho tất cả mọi người, cho nên con đừng cảm thấy khát khao luyến tiếc cuộc đời này. Mặc dù con có khát khao luyến tiếc thì con cũng không thể ở lại được, con chỉ có thể lang thang trong cõi sanh tử. Đừng ao ước, đừng luyến tiếc. Con hãy nhớ đến Tam Bảo. Này thiện nam (tín nữ), dù cho các phóng tưởng kinh hãi nào xuất hiện trong bardo pháp tánh này, thì đừng quên những lời này, hãy liên tục nhớ đến ý nghĩa của những lời này, điểm cốt lõi là nhận ra, cùng với những lời này : ÷

Giờ đây khi bardo pháp tánh hiện lên cho tôi,
tôi sẽ buông bỏ mọi niệm sợ hãi, kinh hoàng,
tôi sẽ nhận biết rằng bất cứ cái gì xuất hiện đều chỉ là phóng tưởng của tôi
và biết nó chính là một ảnh hiện của bardo ;
giờ đây tôi đã tới thời điểm quyết định
tôi sẽ không sợ hãi các thần bình yên và xung nộ, đó là những phóng tưởng của riêng tôi mà thôi. ÷

“Hãy cứ liên tục nói những lời này rõ ràng rành mạch và nhớ tới ý nghĩa của chúng. Đừng quên chúng, bởi vì điểm quyết định là, với sự xác tín, hãy nhận ra rằng bất cứ cái gì xuất hiện dù kinh hãi đến đâu cũng đều là các phóng tưởng riêng của con. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), khi thân và tâm của con tách rời nhau, pháp tánh sẽ xuất hiện, thanh tịnh, rõ ràng tuy nhiên rất khó nhận rõ, sáng rực rỡ chói lọi với sức sáng kinh khủng, như ảnh quáng nắng[11]* trên cánh đồng mùa xuân. Đừng sợ hãi nó, đừng hoảng hốt. Đây là sự tỏa sáng rực rỡ tự nhiên của pháp tánh riêng của con, bởi thế, hãy nhận ra nó. ÷

“Một tiếng sấm gầm rất lớn sẽ đến từ trong ánh sáng, đó là âm thanh tự nhiên của pháp tánh, giống như ngàn tiếng sấm đổ ầm cùng một lúc. Đây là âm thanh tự nhiên của pháp tánh của riêng con, nên đừng sợ, đừng hoảng hốt. Con có cái gọi là thân tinh thần gồm những xu hướng không có ý thức, con không có thân vật lý gồm thịt và máu, cho nên dù bất cứ âm thanh nào, màu sắc, tia sáng nào xuất hiện cũng không thể làm hại con được và con không thể chết. Đơn giản là con chỉ việc nhận ra rằng chúng là những phóng tưởng của con. Con hãy biết đây là trạng thái bardo. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), với cách này nếu con không nhận ra chúng chính là những phóng tưởng của con, dù bất cứ sự tu tập thiền định nào con đã hành trì khi còn sống, nếu con đã không gặp giáo pháp này, thì giờ đây các ánh sáng đầy màu sắc cũng sẽ đe dọa con được, các âm thanh cũng sẽ làm con hoảng hốt và các chùm tia sáng cũng sẽ làm con kinh hãi. Nếu con không hiểu được điểm cốt yếu này của giáo pháp, con sẽ không nhận ra được những ánh sáng, tia sáng, âm thanh và do đó con sẽ lưu lạc trong cõi sanh tử luân hồi. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), sau bốn ngày rưỡi bất tỉnh (không có ý thức) đây con sẽ tiếp tục cuộc hành trình, và được tỉnh dậy từ sự bất tỉnh con sẽ phân vân tự hỏi điều gì đã xảy ra cho con, cho nên con hãy nhận ra nó chính là trạng thái bardo. Vào lúc đó, cõi sanh tử bị đẩy lùi lại, và mọi thứ con thấy đều xuất hiện dưới dạng ánh sáng và hình ảnh. ÷

“Toàn bộ hư không sẽ chiếu sáng với một ánh sáng xanh và đức Phật Tỳ Lô Giá Na từ cõi Trung Ương, cõi Hiển Lộ Khắp Nơi (the central Realm, All-pervading Circle) xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu trắng, ngài ngự trên ngai sư tử, cầm trong tay một bánh xe có tám nan hoa và ngài đang ôm người phối hợp là Nữ Hoàng Hư Không Kim Cương (The Queen of Vajra Space). Ánh sáng xanh da trời của thức uẩn với sự thanh tịnh cơ bản, tức là Pháp Giới Thể Tánh Trí (the wisdom of the dharmadhatu), trong suốt, rực rỡ, sắc bén, quang minh từ trái tim đức Phật Tỳ Lô Giá Na và người phối hợp chiếu về hướng con và chiếu xuyên qua con khiến cho đôi mắt con không chịu đựng nổi. Cùng lúc, và với ánh sáng đó có ánh sáng trắng êm dịu của chư thiên cũng sẽ hướng về con và xuyên thủng con. Đồng thời chịu ảnh hưởng của nghiệp xấu ác, con sẽ sợ hãi trốn tránh khỏi pháp giới thể tánh trí nơi có ánh sáng xanh da trời rực rỡ, con sẽ cảm thấy một thứ tình cảm vui sướng hướng về ánh sáng trắng êm dịu của các vị trời. Lúc đó con đừng quá kinh hãi, hoảng hốt bởi ánh sáng màu xanh của trí huệ tối thượng rất sắc bén, trong suốt, rực rỡ, quang minh, bởi vì đó là tia sáng của Phật, nó được gọi là pháp giới thể tánh trí. Với lòng chân thành sùng bái tôn thờ, con hãy để tia sáng đó thu hút con, con hãy khẩn cầu, và nghĩ rằng, ‘Đây là tia sáng đại bi của đức Phật Tỳ Lô Giá Na, con xin quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Như vậy, đức Phật Tỳ Lô Giá Na đích thị đang đến tiếp dẫn con từ trong nẻo đường bardo đầy hiểm nguy, đó chính là tia sáng đại bi của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. ÷

“Con đừng ham vui thú với ánh sáng trắng êm dịu, đừng để bị nó lôi cuốn và cũng đừng thương tiếc nó. Nếu con để nó lôi cuốn, con sẽ lang thang ở cõi các vị trời và lưu lạc trong sáu nẻo luân hồi. Đó là một chướng ngại ngăn chặn con đường giải thoát, cho nên con đừng nhìn nó, nhưng con hãy cảm thấy là đang mong ước ánh sáng xanh sáng chói, và với sự tập trung tâm rất cao độ nghĩ đến đức Phật Tỳ Lô Giá Na con hãy lập đi lập lại bài Lời Cầu Nguyện Linh Cảm sau đây : ÷

Vì vô minh dày đặc con lang thang trong luân hồi 
sanh tử,
giờ đây nương vào con đường ánh sáng quang minh của Pháp Giới Thể Tánh Trí,
cầu xin đức Phật Tỳ Lô Giá Na đi trước mặt con,
người phối hợp của ngài là Hoàng Hậu Hư Không Kim Cương đi phía sau con ;
xin giúp con vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷

Bằng cách đọc lời cầu nguyện linh cảm này với lòng sùng mộ sâu sắc, người chết sẽ tan vào trong ánh sáng cầu vồng trong tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na và người phối hợp của ngài, và trở thành một báo thân Phật trong cõi Trung Ương, cõi Hiển Lộ Vô Lượng (the central Realm, The Densely Arrayed). ÷

Nếu ngay cả sau khi nghe đọc lời chỉ bày nhưng vì sự sân hận và tấm màn vô minh điên đảo, ông ta sợ hãi các ánh sáng và tia sáng, và tìm cách trốn thoát, và nếu ông ta vẫn mê lầm dù sau khi đọc lời cầu nguyện, thì vào ngày thứ hai, ông ta cùng với nghiệp bất thiện đưa đến địa ngục, sẽ được bộ nhóm các deities (Bồ tát thần) của Phật Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva) đến tiếp dẫn. Cho nên, để chỉ bày cho người chết, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời này : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận, không được phân tán. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng trắng, thành phần tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng, đồng thời đức Kim Cương Tát Đỏa-A Súc Bệ Phật từ cõi Toàn Lạc Phương Đông màu xanh xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu xanh, ngài cầm trong tay một Kim cương sử năm nhánh, ngài ngự trên ngai voi, đang ôm người phối hợp là Phật Mẫu Locana. Ngài được tháp tùng bởi hai vị Bồ tát là Địa Tạng Vương (Ksitigarbha) và Di Lặc (Maitreya) cùng với hai vị nữ Bồ tát là Lasya và Puspa, cho nên có sáu tướng Phật xuất hiện. ÷

“Ánh sáng trắng của sắc uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Đại Viên Cảnh Trí (trí huệ giống như cái gương), thứ ánh sáng trắng chói chang, quang minh, trong suốt, từ tim của Phật Kim Cương Tát Đỏa và người phối hợp sẽ chiếu về hướng con và xuyên thủng con khiến mắt con không chịu nổi để thấy ánh sáng đó. Cùng lúc, và cùng với ánh sáng trí huệ đó, có ánh sáng màu khói, êm dịu, của chúng sanh địa ngục cũng chiếu rọi về hướng con và xuyên thủng con. Cùng lúc đó, dưới tác động của sân hận, con sẽ sợ sệt cố tránh né ánh sáng trắng sáng chói, con sẽ cảm thấy một tình cảm vui thích hướng về ánh sáng màu khói êm dịu của chúng sanh địa ngục. Vào lúc đó, con đừng sợ ánh sáng trắng trong suốt, rực rỡ, quang minh, sắc sảo, mà hãy nhận ra ánh sáng đó chính là trí huệ. Với lòng sùng mộ mong ước, con hãy để ánh sáng trắng đó thu hút con, và con hãy khẩn cầu với ý nghĩ rằng, ‘Đó là tia sáng của lòng đại bi của Phật Kim Cương Tát Đỏa Thiêng Liêng, con xin quy y nương dựa vào ánh sáng đó.’ Chính ngài Kim Cương Tát Đỏa đang tiếp dẫn con trong nẻo đường bardo đầy sự kinh hoàng ; đó chính là cái móc câu bằng tia sáng của lòng đại bi của đức Kim Cương Tát Đỏa, cho nên con hãy cảm thấy là đang mong cầu nó. ÷

“Con đừng hưởng vui thú trong ánh sáng màu khói êm dịu của chúng sanh địa ngục. Đó là nẻo đường mời gọi của các tấm màn vô minh điên đảo của con, do sân hận mãnh liệt đã tích tụ lại. Nếu con bị nó thu hút lôi kéo, con sẽ rơi xuống địa ngục, chìm vào vũng lầy chứa đầy sự đau khổ không chịu nổi và chẳng cách nào thoát ra được. Nó là chướng ngại ngăn chặn con đường giải thoát cho nên con đừng nhìn nó, mà hãy buông bỏ thù hận. Đừng để nó lôi cuốn con, đừng thương tiếc nó. Con nên cảm thấy là đang mong ước ánh sáng trắng quang minh rực rỡ và với sự tập trung tâm cao độ vào đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷

Vì thù hận cao độ con lang thang trong sanh tử,
giờ đây nương vào con đường ánh sáng quang minh của Đại Viên Cảnh Trí,
cầu xin đức Phật Kim Cương Tát Đỏa đi trước mặt con,
người phối hợp của ngài, đức Phật Mẫu Locana đi sau lưng con ;
xin giúp con vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷

Bằng việc đọc lời cầu nguyện linh cảm này với lòng sùng bái sâu sắc, ông ta sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của đức Phật Kim Cương Tát Đỏa và người phối hợp của ngài và trở nên một báo thân Phật trong Cõi Toàn Lạc phương Đông. ÷

Tuy nhiên ngay cả sau khi nghe lời chỉ bày này, một số người vì kiêu mạn và những tấm màn vô minh điên đảo, họ sợ cái móc câu làm bằng tia sáng lòng đại bi và họ tránh né. Cho nên vào ngày thứ ba, họ cùng với nẻo đường ánh sáng của cõi người sẽ được nhóm các thần của đức Phật Bảo Sanh đến tiếp dẫn. Cho nên, để chỉ dẫn cho người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và nói những lời này : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận không được phân tán. Vào ngày thứ ba, một tia sáng vàng, yếu tố thanh khiết của đất, sẽ chiếu sáng và cùng lúc đó, đức Phật Bảo Sanh từ Cõi Vinh Quang phương Nam màu vàng sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu vàng, ngài cầm một viên ngọc như ý trong tay, ngồi trên ngai con ngựa, đang ôm người phối hợp là Phật Mẫu Mamaki. Ngài được tháp tùng bởi hai Bồ tát là Aøkasagarbha (Hư Không Tạng Bồ tát) và Samanbhadra (Phổ Hiền Bồ tát) và hai nữ Bồ tát là Mala và Dhupa, do đó có sáu tướng Phật từ không gian của ánh sáng cầu vồng xuất hiện. ÷

“Ánh sáng vàng của thọ uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Bình Đẳng Tánh Trí (the wisdom of equality), màu vàng sáng chói, trang hoàng với những dĩa ánh sáng quang minh, trong suốt, sáng đến độ mắt không chịu nổi, từ tim của đức Phật Bảo Sanh và người phối hợp chiếu về hướng con và xuyên qua tim con, khiến cho mắt con không thể chịu nổi khi nhìn nó. Cùng lúc và cùng với ánh sáng trí huệ đó, có thứ ánh sáng xanh da trời êm dịu của cõi người cũng xuyên qua tim con, dưới tác động của ngã mạn, con sẽ sợ và cố tránh né ánh sáng vàng trong trẻo, sắc bén, con sẽ cảm thấy có tình cảm vui thú bị lôi cuốn hướng về ánh sáng xanh dịu của cõi người. Ngay lúc đó, con đừng sợ ánh sáng vàng chói lọi, trong suốt, sắc bén quang minh, con hãy nhận ra nó chính là trí huệ. Hãy để tâm con an trú trong nó, buông xả trong một trạng thái vô-tác, và mong ước được nó kéo con vào. Cho dù con không cảm thấy rất sùng mộ và con không đọc lời khẩn cầu cảm ứng, nhưng nếu con nhận ra nó chính là tính sáng chiếu tự nhiên của tự tâm con, thì tất cả các hình tướng, các ánh sáng và các tia sáng sẽ nhập làm một – bất ly – với con, và con sẽ đạt tới giác ngộ. Nếu con không thể nhận ra nó là tính sáng chiếu tự nhiên của tâm con, thì với lòng thiết tha sùng mộ, con hãy khẩn cầu với ý nghĩ rằng, ‘Đó là tia ánh sáng lòng đại bi của đức Phật Bảo Sanh, con xin quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Đó là cái móc câu bằng tia ánh sáng lòng đại bi của đức Phật Bảo Sanh, nên con hãy cảm thấy đang ao ước mong cầu nó. ÷

“Con đừng hưởng vui thú trong ánh sáng xanh êm dịu của cõi người. Đó là nẻo đường ánh sáng rất cám dỗ của những xu hướng thói quen không có ý thức, do sự ngã mạn cao độ của con kết tụ lại. Nếu con bị nó lôi cuốn vào, con sẽ rơi vào cõi người và kinh qua sanh, lão, bệnh, tử, khổ đau, và con không bao giờ thoát khỏi vũng bùn lầy lội của sanh tử. Nó là chướng ngại ngăn cản con đường giải thoát, cho nên con đừng nhìn nó, con hãy buông bỏ ngã mạn, hãy buông bỏ các xu hướng thói quen không có ý thức của con. Đừng để nó thu hút, đừng thương tiếc nó. Con hãy cảm thấy đang mong ước ánh sáng vàng rực rỡ quang minh, và với sự tập trung nhất tâm cao độ nghĩ đến đức Phật Bảo Sanh, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây :

Vì kiêu mạn quá mức con lang thang trong sanh tử,
giờ đây nương vào con đường ánh sáng quang minh của Bình Đẳng Tánh Trí,
cầu xin đức Phật Bảo Sanh đi trước mặt con,
người phối hợp của ngài, đức Phật Mẫu Mamaki đi sau lưng con ;
xin giúp con vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷

Bằng việc đọc lời khẩn cầu linh cảm này với sự sùng bái sâu sắc, ông ta sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của đức Phật Bảo Sanh và người phối hợp của ngài và trở nên một báo thân Phật trong cõi phương Nam, Cõi Vinh Quang. ÷

Với sự khai thị chỉ bày như cách này thì chắc chắn được giải thoát, dù những người căn cơ yếu cũng có thể được. Tuy nhiên sau khi được chỉ bày như thế này trong nhiều lần, cũng có những người đã bỏ qua các cơ hội may mắn, chẳng hạn như những người đã làm điều quá ác độc hay đã thoái hóa trong việc hành trì samaya những người đó sẽ không nhận ra được lời khai thị. Vì bị rối loạn bởi lòng tham và những tấm màn vô minh điên đảo, họ sẽ sợ hãi các âm thanh và ánh sáng và họ sẽ trốn đi, cho nên vào ngày thứ tư, những người đó cùng với nẻo đường ánh sáng của quỷ đói do lòng tham và keo kiệt bủn xỉn làm nên, tất cả sẽ được nhóm các thần của đức Phật A Di Đà (The Blessed Amitabha) đến tiếp dẫn họ. Để chỉ bày cho người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời này :

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận không được phân tán. Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi Cực Lạc (The Blissful) sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người phối hợp là Phật Mẫu Pandaravasini. Ngài được tháp tùng bởi hai vị Bồ tát là đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và đức Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) và hai vị nữ Bồ tát là Gita và Aloka, khiến cho từ trong không gian ánh sáng cầu vồng có sáu tướng Phật xuất hiện. ÷

“Ánh sáng đỏ của tưởng uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ rực rỡ, được trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của đức Phật A Di Đà và người phối hợp chiếu tới và xuyên qua tim con khiến con không chịu nổi khi nhìn nó. Con đừng sợ ánh sáng đó. Cùng lúc và cùng với ánh sáng trí huệ đó, có một thứ ánh sáng vàng êm dịu của các quỷ đói cũng sẽ chiếu tới. Con đừng thích thú nó ; con hãy buông bỏ tham muốn và thương tiếc. ÷

“Vào lúc đó, dưới tác động của lòng tham muốn quá mức, con sẽ sợ hãi lẩn tránh ánh sáng đỏ rực rỡ, sắc bén ; con sẽ cảm thấy sự vui thích và bị thu hút về ánh sáng vàng êm dịu của quỷ đói. Chính vào lúc đó, con đừng sợ hãi ánh sáng đỏ, sắc bén sáng suốt, quang minh, trong suốt, con hãy nhận ra chính nó là trí huệ. Hãy để tâm con an trú trong nó, buông xả trong trạng thái vô tác. Với lòng chân thành mong cầu được thu hút vào nó. Nếu con nhận ra nó chính là tánh sáng tỏ tự nhiên của riêng con thì dù con không cảm thấy có sự sùng mộ và dù con không đọc lời khẩn cầu linh cảm, thì tất cả các hình tướng và ánh sáng và tia sáng sẽ nhập làm một – bất ly – với con, và con sẽ đạt tới giác ngộ. Nếu với cách này mà con không thể nhận ra nó, thì với lòng sùng mộ, con hãy khẩn cầu với ý nghĩ rằng, ‘Đó là tia ánh sáng lòng đại bi của đức Phật A Di Đà, con xin quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Đó là cái móc câu bằng tia sáng lòng đại bi của đức Phật A Di Đà. Con hãy cảm thấy có lòng sùng mộ và con đừng trốn thoát. Dù con trốn bỏ đi, nó vẫn sẽ ở – bất ly – với con. ÷

“Con đừng sợ hãi, con đừng bị ánh sáng vàng êm dịu của các quỷ đói thu hút con. Đó là nẻo đường ánh sáng của những xu hướng thói quen không có ý thức do sự tham lam quá độ của con tích tụ lại. Nếu con bị nó lôi cuốn, con sẽ rơi vào cõi quỷ đói và con sẽ trải qua những điều bất hạnh không chịu đựng nổi về đói và khát. Nó là chướng ngại ngăn cản con đường giải thoát, cho nên con đừng để nó lôi cuốn vào, con hãy buông bỏ những xu hướng thói quen không có ý thức của con. Con đừng thương tiếc nó. Con hãy cảm thấy đang mong ước ánh sáng đỏ quang minh rực rỡ và với sự tập trung nhất tâm cao độ hướng về đức Phật A Di Đà và người phối hợp của ngài, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷

Vì tham muốn quá độ con lang thang trong sanh tử,
giờ đây nương vào con đường ánh sáng quang minh của Diệu Quan Sát Trí,
cầu xin đức Phật A Di Đà đi trước mặt con,
người phối hợp của ngài là Phật Mẫu Pandaravasini đi sau lưng con ;
xin giúp con vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷

Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này với lòng sùng bái sâu sắc, người chết sẽ tan nhập vào trong ánh sáng cầu vồng trong tim của đức Phật A Di Đà Thiêng Liêng, đức Vô Lượng Quang, với người phối hợp của ngài và trở thành một báo thân Phật trong cõi phương Tây, Cõi Cực Lạc. ÷

Bằng cách này thì không thể nào không giải thoát được ; tuy nhiên sau khi khai thị như vậy cũng còn những chúng sanh hữu tình không thể từ bỏ những xu hướng thói quen vô ý thức vì những tập nghiệp lâu đời và dưới ảnh hưởng của tâm ganh tỵ và nghiệp ác độc, họ sợ những âm thanh và ánh sáng ; cái móc câu bằng tia-ánh sáng lòng đại bi không câu bắt họ được nên họ lang thang xuống tới ngày thứ năm trong trạng thái bardo. Đến đây, nhóm các thần của đức Phật Bất Không Thành Tựu cùng với những tia-ánh sáng của lòng đại bi sẽ đến tiếp dẫn họ, và còn có nẻo đường-ánh sáng của các Atula (các bán thiên ganh tỵ) do các cảm tính ganh ghét tạo nên, cũng sẽ đến mời dụ họ. Cho nên, để chỉ bày cho người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận không được phân tán. Vào ngày thứ năm, một thứ ánh sáng xanh lá cây, đó là yếu tố tinh khiết của không khí, sẽ chiếu sáng và đồng thời đức Phật Bất Không Thành Tựu, vị đứng đầu của nhóm từ cõi phương Bắc màu xanh lá cây, cõi Những Hành Động Tích Tập sẽ xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu xanh lá cây, ngài cầm một kim cương sử đôi trong tay và ngồi trên ngai các thần điêu Ca-lâu-la (shang-shang birds) bay lượn trên bầu trời, ngài đang ôm người phối hợp là Phật Mẫu Samaya-Tara. Ngài được hộ tống bởi hai Bồ tát là Kim Cương Thủ (Vajrapani) và Sarvanivaranaviskambhin và hai vị Bồ tát là Gandha và Naivedya, khiến cho từ không gian ánh sáng cầu vồng xuất hiện sáu tướng Phật. ÷

“Ánh sáng màu xanh lục của hành uẩn trong tánh thanh tịnh căn bản của nó là Thành Sở Tác Trí, màu xanh lục quang minh, rực rỡ, trong sáng sắc bén và đáng sợ, được trang hoàng bằng những dĩa ánh sáng, từ tim của đức Phật Bất Không Thành Tựu và người phối hợp chiếu thẳng đến và xuyên qua tim con khiến cho mắt con không chịu đựng nổi để nhìn nó. Con đừng sợ nó. Nó là động tác phô diễn tự nhiên của tự tâm con, cho nên con hãy an trú trong trạng thái vượt khỏi vô tác vô ưu trong đó không có đây kia, không có thương ghét. Đồng thời cùng với ánh sáng trí huệ có một thứ ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula do sự ganh ghét gây ra cũng sẽ chiếu sáng đến con. Con hãy thiền định sao cho không có khác biệt giữa thương và ghét. Nhưng nếu con thiếu sáng suốt thì cách đơn giản là con đừng hưởng vui thú trong ánh sáng đỏ êm dịu đó. ÷

“Vào lúc đó, dưới ảnh hưởng của lòng ganh ghét mãnh liệt, con sẽ sợ hãi và trốn khỏi ánh sáng xanh lá cây chói lọi sắc bén, mà con sẽ cảm thấy vui sướng bị thu hút về hướng ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula. Ngay lúc đó, con đừng sợ ánh sáng xanh lục quang minh, sắc bén, rực rỡ, trong suốt, mà hãy nhận ra nó chính là trí huệ. Hãy để cho tâm con an trú trong nó, được buông xả, trong một trạng thái vô tác và với lòng sùng mộ con hãy khẩn cầu với ý nghĩ rằng, ‘Đó là tia sáng lòng đại bi của đức Phật Bất Không Thành Tựu, con xin quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Nó là cái móc câu bằng tia sáng lòng đại bi của đức Phật Bất Không Thành Tựu, được gọi là Thành Sở Tác Trí, cho nên con hãy mong ước nó và đừng lẩn tránh nó. Cho dù con muốn lẩn tránh thì nó vẫn ở – bất ly – với con. ÷

“Con đừng sợ ánh sáng xanh lục đó, con đừng để cho ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula thu hút con. Đó là con đường dẫn dụ của nghiệp được tích tụ bởi sự ganh tỵ mãnh liệt của con. Nếu con bị ánh sáng đỏ êm dịu lôi cuốn, con sẽ rơi vào cõi Atula và con sẽ kinh qua sự bất hạnh đau khổ không thể chịu đựng nổi do những cuộc đánh nhau, những mâu thuẫn. Đó là chướng ngại cản trở con đường giải thoát, cho nên con đừng để nó lôi cuốn con vào, con hãy từ bỏ các xu hướng thói quen không có ý thức. Con hãy cảm thấy đang mong chờ ánh sáng xanh lá cây chói lọi rực rỡ và với sự tập trung nhất tâm cao độ hướng về đức Phật Bất Không Thành Tựu và người phối hợp, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷

Vì ganh tỵ mãnh liệt con lang thang trong sanh tử,
giờ đây nương vào con đường ánh sáng quang minh của Thành Sở Tác Trí,
cầu xin đức Phật Bất Không Thành Tựu đi trước mặt con,
người phối hợp của ngài là Phật Mẫu Samaya-Tara đi sau lưng con ;
xin giúp con vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷

Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này với lòng sùng mộ sâu sắc, người chết sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của đức Phật Bất Không Thành Tựu và người phối hợp, và trở thành một báo thân Phật trong cõi phương Bắc, cõi những Hành Động Thành Tựu. ÷
Dù cho các thiện nghiệp của ông ta có yếu kém, nhưng với sự chỉ bày như thế này ở trong nhiều giai đoạn, nếu ông ta không nhận ra trong thời điểm này thì sẽ cũng nhận ra ở thời điểm khác, cho nên ông ta không thể nào mà không được giải thoát. Nhưng cả khi được chỉ bày giáo pháp này trong nhiều lần nhưng có những người mà họ đã quá quen với nhiều xu hướng thói quen không có ý thức trong thời gian lâu dài và đã không bao giờ quen với những linh ảnh thanh tịnh của năm trí, thì họ sẽ bị những xu hướng thói quen xấu ác của họ kéo họ lùi lại dù họ đã được chỉ cho thấy, khiến cho cái móc bằng tia sáng lòng đại bi không câu bắt họ được, họ trở nên hoảng hốt sợ hãi các ánh sáng và các tia sáng, họ lang thang xuống các cõi thấp. Nên, vào ngày thứ sáu, các vị Phật trong Năm Bộ với các vị phối hợp, các thần Bồ tát tùy tùng sẽ xuất hiện cùng một lúc, và đồng thời các ánh sáng của sáu cõi cũng sẽ cùng lúc chiếu sáng. ÷

Để khai thị cho người chết, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời này : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận. Không được phân tán. Cho đến hôm qua, mặc dù con đã được chỉ bày mỗi khi ánh sáng của từng vị Phật trong năm bộ xuất hiện, nhưng con đã bối rối phân vân vì ảnh hưởng của các xu hướng thói quen xấu, nên hôm nay con còn ở lại đây. Nếu con đã nhận ra được tánh chiếu sáng tự nhiên của các trí huệ của năm bộ Phật đó chính là phóng tưởng của riêng con, thì con lẽ ra đã tan nhập được vào ánh sáng cầu vồng trong thân của một trong năm bộ Phật và đã trở thành một báo thân Phật, nhưng vì con đã không nhận ra nên cho đến giờ phút này con còn tiếp tục đi lang thang. Cho nên, giờ đây con hãy nhìn cẩn thận không được phân tán. ÷

“Giờ đây tất cả năm bộ Phật sẽ cùng xuất hiện và cái gọi là bốn trí huệ kết hợp sẽ đến tiếp dẫn con, con hãy nhận ra bốn trí huệ đó. Này thiện nam (tín nữ), bốn thứ ánh sáng màu của bốn yếu tố tinh khiết sẽ chiếu sáng ; cùng một lúc đức Phật Tỳ Lô Giá Na và người phối hợp từ Cõi Trung Ương – Cõi Giới Hiển Lộ Khắp Nơi (the Central Realm, All-pervading Circle) sẽ xuất hiện ngay trước mặt ; đức Phật Kim Cương Tát Đỏa và vị phối hợp và đoàn tùy tùng từ cõi phương đông – Cõi Toàn Lạc (Complete Joy) sẽ xuất hiện ; đức Phật Bảo Sanh và vị phối hợp cùng đoàn tùy tùng từ cõi phương nam, Cõi Vinh Quang (The Glorious) sẽ xuất hiện ; đức Phật A Di Đà với vị phối hợp và đoàn tùy tùng từ cõi Cực Lạc Liên Hoa tây phương sẽ xuất hiện ; và đức Phật Bất Không Thành Tựu với vị phối hợp và đoàn tùy tùng từ cõi phương bắc, cõi Những Hành Động Thành Tựu (Perfected Actions) sẽ xuất hiện, từ không gian của ánh sáng cầu vồng. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), ngoài các vị Phật đó của năm bộ còn có các vị thần xung nộ canh giữ các cổng cũng sẽ xuất hiện như : Vijaya, thần Chiến Thắng ; Yamantaka, kẻ Hủy Diệt Cái Chết ; Hayagriva thần Cổ Ngựa ; và Amrtakundali, thần Bình Đựng Rượu Cam Lồ ; và các nữ thần canh giữ cổng như : Ankusa, nữ thần Cái Móc Câu ; Pasa, nữ thần Cái Thòng Lọng ; Srnkhala, nữ thần Dây xích ; và Ghanta, nữ thần Cái Chuông ; Sáu vị Thánh Thiêng liêng cũng sẽ xuất hiện (the Blessed Ones) như : Indra vị Thánh một trăm hiến tế (Indra of the hundred sacrifices) tức là vị thánh của các vị trời ; Vemacitra, có tên là Vị Áo Choàng Rực Rỡ (Splendid Robe) tức là vị thánh của các Atula ; Sư Tử Vương Sakyas (Lion of the Sakyas), tức là vị thánh của con người ; Dhruvasinha, có tên Sư Tử Kiên Cường (Steadfastlion), tức là vị thánh của súc sanh, Jvalamukha, vị có tên Miệng Rực Lửa (Flaming mouth), tức là vị thánh của các quỷ đói ; và Dharmaraja có tên Pháp Vương (Dharma King) vị thánh của chúng sanh địa ngục. Hai vị Phụ và Mẫu Toàn Thiện (The All Good Father and Mother) của tất cả chư Phật là Samantabhadra và Samantabhadri cũng sẽ xuất hiện. Bốn mươi hai thần ở dạng báo thân sẽ nổi lên từ bên trong tim của chính con và xuất hiện trước mặt con ; các vị là hình tướng thanh tịnh của các phóng tưởng của con, cho nên con hãy nhận ra các vị đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), các cõi giới đó cũng không có mặt ở nơi nào khác, mà nằm trong bốn phương hướng của tim con và hướng thứ năm là trung tâm tim, và giờ đây các vị nổi lên từ bên trong tim con và xuất hiện trước mặt con. Các hình ảnh hiện thân của chư vị cũng không từ nơi nào khác đến, nhưng là trò phô diễn nguyên sơ tự phát của tâm con, cho nên con hãy nhận ra các vị theo cách này. Này thiện nam (tín nữ), các hình ảnh đó không lớn không nhỏ, mà cân đối hoàn hảo. Mỗi vị có riêng các sắc phục trang hoàng, màu, tư thế đứng, ngai, biểu tượng. Các vị được bố trí rộng ra thành năm cặp, mỗi cặp đều được bao vòng quanh bằng vầng hào quang của năm ánh sáng màu. Toàn bộ mạn đà la – các thần nam nữ của các bộ – sẽ xuất hiện trọn bộ, tất cả cùng lúc tức thời. Con hãy nhận ra các vị đó, bởi vì họ là những yidam thần bổn tôn của con. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), các tia-ánh sáng của bốn trí huệ từ trong tim của chư Phật trong năm bộ và các vị phối hợp, sẽ chiếu sáng từng tia một lên tim con, rất đẹp và rõ, giống như các chùm tia sáng mặt trời chiếu tới. ÷

“Trước hết, Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng quang minh, rực rỡ đáng kinh ngạc, từ tim của đức Phật Tỳ Lô Giá Na sẽ chiếu sáng lên tim con. Trong tấm vải dệt bằng các tia ánh sáng này, một cái dĩa trắng lóng lánh sẽ xuất hiện, rất rực rỡ trong sáng, giống như một cái gương hướng mặt xuống, được trang hoàng xung quanh bằng năm dĩa giống như vậy, và năm dĩa này đến lượt được trang trí cũng bằng những cái dĩa và những dĩa nhỏ hơn, cứ thế sao cho không có chỗ nào là trung tâm hay ngoại vi. ÷

“Từ tim của đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, trên tấm vải màu xanh da trời quang minh của Đại viên cảnh trí, sẽ xuất hiện một cái dĩa xanh giống như một cái chén màu lam ngọc, hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. ÷

“Từ tim đức Phật Bảo Sanh, trên tấm vải vàng của Bình đẳng tánh trí quang minh, sẽ xuất hiện một cái dĩa vàng giống như một cái chén vàng hướng mặt xuống, được trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. ÷

“Từ trong tim đức Phật A Di Đà, trên tấm vải đỏ rực rỡ của Diệu quan sát trí quang minh, sẽ xuất hiện một cái dĩa đỏ lóng lánh giống như một cái chén đỏ màu san hô hướng mặt xuống, chiếu sáng bằng ánh sáng trí huệ sâu sắc, rất rực rỡ trong sáng, được trang hoàng xung quanh bằng năm dĩa giống như vậy, rồi chính năm dĩa này được trang trí bằng những dĩa và những dĩa nhỏ hơn, sao cho không có chỗ nào là trung tâm hay ngoại vi. ÷

“Chúng sẽ chiếu sáng lên tim con. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), những thứ này cũng đã nổi lên từ trò phô diễn tự phát của tự tâm con, chúng đã không đến từ nơi nào khác ; cho nên con đừng nên ưa thích chúng, con đừng sợ chúng, nhưng con ở yên thư giãn trong một trạng thái thoát khỏi ý niệm. Trong trạng thái đó tất cả các hình ảnh xuất hiện và các tia-ánh sáng sẽ nhập làm một với con và con sẽ đạt tới giác ngộ. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), ánh sáng xanh lục của Thành sở tác trí không xuất hiện bởi vì năng lực trí huệ của con chưa đủ chín mùi. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), điều này được gọi là kinh nghiệm của bốn trí huệ được kết hợp, đó là lối dẫn đường của đức Kim Cương Tát Đỏa. Vào lúc này, con hãy nhớ đến những gì mà vị thầy (guru) của con đã giảng trước đây về sự chỉ bày khai thị. Nếu con nhớ được ý nghĩa của lời khai thị, con sẽ có lòng tin vào những kinh nghiệm trước đó của con và do đó, con sẽ nhận ra chúng, giống như cuộc hội ngộ của mẹ và con, hay giống như gặp lại bạn cũ. Như thể đoạn dứt được nghi ngờ, con sẽ nhận ra các phóng tưởng riêng của con, và đi vào con đường bất biến thanh tịnh của pháp tánh ; và thông qua lòng tin đó một trạng thái thiền định tương tục sẽ khởi lên, và con sẽ tan nhập vào trong một dạng đại trí huệ tự hiện hữu, và con sẽ trở nên một báo thân Phật, không bao giờ rơi trở lại. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), cùng với các ánh sáng trí huệ, còn có các ánh sáng của sáu cõi bất tịnh giả ảo sẽ chiếu sáng : ánh sáng trắng êm dịu của các vị trời, ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula, ánh sáng xanh da trời êm dịu của cõi người, ánh sáng xanh lục êm dịu của các súc sanh, ánh sáng vàng êm dịu của các quỷ đói và ánh sáng màu khói êm dịu của chúng sanh địa ngục. Sáu ánh sáng êm dịu này sẽ cùng chiếu sáng với các ánh sáng trí huệ thanh tịnh. Vào lúc đó, con đừng nắm bắt hay bị lôi cuốn bởi bất kỳ ánh sáng nào, con chỉ ở yên, thư giãn trong một trạng thái không bị ý niệm kiềm hãm. Nếu con sợ hãi các ánh sáng trí huệ thanh tịnh và bị lôi cuốn vào các ánh sáng bất tịnh của sáu cõi, con sẽ nhận lấy thân của một chúng sanh trong sáu cõi và con sẽ trở nên kiệt quệ bởi vì không bao giờ có được một lối thoát ra khỏi đại dương đau khổ của sanh tử. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu con không được thầy con khai thị chỉ bày, con sẽ sợ hãi các hình ảnh và các ánh sáng trí huệ thanh tịnh đó, và sẽ bị thu hút vào các ánh sáng bất tịnh của cõi sanh tử ; chớ làm thế, con hãy cảm thấy hết lòng sùng mộ các ánh sáng trí huệ thanh tịnh, sắc bén rực rỡ. Với lòng sùng mộ, con hãy nghĩ rằng, ‘Các tia-ánh sáng trí huệ và đại bi của chư vị Thiêng Liêng tức là chư Phật trong năm bộ vì lòng đại bi đã đến nắm giữ con ; con quy y vào các ngài.’ Con đừng ham thích các ánh sáng của sáu cõi giả ảo, con đừng thương tiếc các ánh sáng đó, nhưng với sự tập trung nhất tâm cao độ vào chư Phật trong năm bộ và các vị phối hợp, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷

Khi vướng vào năm độc con lang thang trong sanh tử,
nay nương vào con đường ánh sáng quang minh của bốn trí huệ kết hợp,
cầu xin các đấng Điều Ngự, Năm Bộ, đi trước mặt con,
chư vị của Năm Bộ đi sau lưng con ;
hãy cứu con thoát khỏi các lối đi ánh sáng của sáu cõi bất tịnh,
xin giúp con vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến năm cõi Phật tịnh độ.” ÷

Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này, người thượng căn nhận ra các phóng tưởng riêng của ông ta và khi hòa nhập với tánh bất nhị ông ta trở thành một vị Phật ; người trung căn nhận ra chính mình thông qua lòng thiết tha sùng mộ và ông ta đạt tới giải thoát ; ngay cả người hạ căn cũng tránh khỏi sự tái sanh vào sáu cõi nhờ ở năng lực tịnh hóa của lời khẩn cầu đó, và cùng với sự hiểu biết ý nghĩa của bốn trí huệ kết hợp, ông ta đạt tới giác ngộ bằng lối đi của Phật Kim Cương Tát Đỏa. Với sự khai thị rõ ràng chính xác theo cách này, rất nhiều chúng sanh hữu tình sẽ nhận ra và được giải thoát. ÷

Nhưng cũng có một số người, như những người hạ căn ở những nơi man rợ và những người độc ác họ không hề có kinh nghiệm về Phật Pháp và những người đã để sự hành trì samaya bị thoái hóa, giờ đây, tất cả những người đó đã bị nghiệp làm cho họ mê lầm, không nhận ra khi được chỉ bày và lang thang đi xuống. Cho nên vào ngày thứ bảy, các vị Nắm Giữ Trí Huệ Sâu Sắc sẽ từ Cõi Hư Không Thanh Tịnh đến tiếp dẫn họ, và cùng lúc đó, họ cũng sẽ gặp con đường ánh sáng của súc sanh do cảm xúc vô minh sản sinh ra. Vào lúc đó, để khai thị người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và nói những lời này : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận không được xao lãng. Vào ngày thứ bảy một thứ ánh sáng nhiều màu, thanh tịnh sẽ chiếu sáng vào trong tâm không có ý thức (uncon-sciousmind) của con, và các vị Vidyadharas[12]* Nắm Giữ Trí Huệ Sâu Sắc (Trì Minh) từ Cõi Hư Không Thanh Tịnh sẽ đến tiếp dẫn con. Ở trung tâm một mạn đa là chứa đầy ánh sáng cầu vồng một vị có tên là Vidyadhara Vô Song Toàn Phát tức là chúa tể Hoa Sen của Vũ Điệu sẽ xuất hiện, thân ngài sáng rực rỡ năm màu, ngài đang ôm người phối hợp là Dakini Đỏ, ngài đang khiêu vũ tay cầm một cái dao cong và một sọ người chứa đầy máu, mặt và tư thế đang nhìn bầu trời. ÷

“Từ phía đông mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara Thiết lập trong Thập Địa[13]** sẽ xuất hiện, màu trắng với một gương mặt tươi cười rạng rỡ, đang ôm người phối hợp là Dakini Trắng, ngài đang khiêu vũ tay cầm một cái dao cong và một sọ người đầy máu, mắt và tư thế đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷

“Từ phía nam mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara Chúa Tể Cuộc Sống sẽ xuất hiện, màu vàng, với hình tướng đẹp, đang ôm vị phối hợp là Dakini Vàng, ngài đang khiêu vũ tay cầm cái dao cong và một sọ người đầy máu, tư thế và mắt đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷

“Từ phía tây mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara Đại Ấn (The great symbol) sẽ xuất hiện, màu đỏ, với gương mặt cười rạng rỡ, đang ôm người phối hợp là Dakini Đỏ, ngài đang khiêu vũ tay cầm cái dao cong và một cái sọ người đầy máu, tư thế và mắt đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷

“Từ phía bắc mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara Khởi Lộ Tự Nhiên sẽ xuất hiện, có màu xanh lục, ngài biểu lộ cùng lúc hai nét mặt giận dữ và mỉm cười, ngài đang ôm người phối hợp là Dakini Xanh, đang khiêu vũ tay cầm cái dao cong và một sọ người đầy máu, tư thế và mắt đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷

“Ngoài các vị Vidyadharas đó ra sẽ còn xuất hiện vô số các đám dakinis : dakinis của tám nghĩa địa, dakinis của bốn bộ, dakinis của tam giới, dakinis của mười phương, dakinis của hai mươi bốn nơi hành hương, các nam nữ anh hùng chiến thắng và tùy tùng, và tất cả nam nữ hộ pháp mang sáu trang sức làm bằng xương với trống, kèn làm bằng xương đùi, trống bằng sọ người, các tấm phướn làm bằng da của thanh niên, trướng làm bằng da người, các đan-ten làm bằng da người, hương nhang làm bằng thịt người, vô số các nhạc cụ khác nhau, tràn ngập khắp miền vũ trụ, họ múa quay cuồng làm cho các nhạc cụ rung động thành nhạc như cơ hồ làm bể đầu, họ khiêu vũ theo kiểu khác nhau, tất cả chư vị sẽ đến tiếp dẫn những ai đã giữ gìn sự hành trì samaya và họ sẽ trừng phạt những ai đã để sự hành trì đó biến mất. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), trong cõi không có ý thức, trí huệ uyên nguyên thanh tịnh chiếu sáng bằng ánh sáng ngũ sắc giống như những sợi chỉ màu xoắn lại nhau, phát sáng chói chang, lung linh, trong trẻo, quang minh sắc bén, kinh rợn, trí huệ đó từ tim của năm vị chúa tể Vidyadharas sẽ chiếu tới và xuyên qua tim con khiến mắt con không chịu nổi nó. Đồng thời, ánh sáng xanh lục êm dịu của súc sanh cũng sẽ chiếu cùng với ánh sáng trí huệ. Ngay lúc đó, dưới ảnh hưởng của tâm mê lầm do những xu hướng không có ý thức gây nên, con sẽ sợ hãi và né tránh ánh sáng ngũ sắc và con sẽ ưa thích ánh sáng êm dịu của súc sanh. Lúc này, con đừng sợ ánh sáng ngũ sắc sắc bén rực rỡ ; con đừng sợ nó, mà hãy nhận ra nó chính là trí huệ. ÷

“Từ trong ánh sáng toàn bộ âm thanh tự phát của pháp như tiếng rền vang của ngàn tiếng sấm vỡ. Ánh sáng làm quay vòng, làm rền vang tiếng sấm và vang dội lại với những tiếng hô xông trận, và âm thanh xuyên thấu rất lớn của các mật chú xung nộ. Con đừng sợ nó, con đừøng lẩn tránh, con đừng kinh hãi. Con hãy nhận ra nó là trò phô diễn của tâm con, phóng tưởng của riêng con. Con đừng ưa thích ánh sáng xanh lục êm dịu của súc sanh, con đừng thương tiếc nó ; nếu con bị nó thu hút, con sẽ rơi vào cõi si mê của súc sanh và con sẽ kinh qua sự chịu đựng khổ đau cùng cực vì ngu xuẩn, câm miệng không nói ; làm nô lệ, và từ cõi đó không có lối nào để thoát ra ; cho nên con đừng ưa thích nó. Con hãy cảm thấy đang mong đợi ánh sáng quang minh trong trẻo, có năm màu, và con hãy tập trung nhất tâm vào chư vị Vidyadharas thiêng liêng, tức là các vị thầy thiêng liêng, với ý nghĩ rằng, ‘Chư vị Vidyadharas này cùng với các vị điều ngự, các dakinis đã đến để tiếp dẫn con vào Cõi Hư Không Thanh Tịnh (the Pure Realm of Space). Cầu xin tất cả chư vị nghĩ tưởng đến các chúng sanh hữu tình như con, những chúng sanh đã không tích tụ phước đức và đã không được tiếp dẫn của vô số các Bồ tát thần của Năm bộ Phật trong quá khứ hiện tại và vị lai đã ra tay cứu độ. Xin hãy thương xót cho kẻ như con ! Giờ đây, con cầu xin tất cả chư vị Vidyadharas hãy đừng để con rơi xuống thấp hơn nữa, hãy câu giữ con lại bằng cái móc câu của lòng đại bi và kéo con lên Cõi Hư Không Thanh Tịnh.’ ÷

“Với sự tập trung nhất tâm cao độ, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm này : ÷
Nguyện cầu chư vị Vidyadharas thiêng liêng hãy nghĩ đến con
và với lòng đại từ hãy dẫn dắt con đi trên đường đạo.
Khi vướng vào các xu hướng mãnh liệt con phải lang thang trong cõi sanh tử,
nay nương vào con đường ánh sáng rực rỡ của trí huệ uyên nguyên,
nguyện cầu chư vị Vidyadharas và các vị điều ngự đi trước mặt con,
các vị phối hợp, các Dakinis đi sau lưng con ;
giúp con vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con tới Cõi Hư Không Thanh Tịnh.” ÷

Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này với lòng sùng bái sâu sắc, người chết sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của các vị Vidyadharas thiêng liêng và được sanh ra trong Cõi Hư Không Thanh Tịnh, chắc chắn không thể nghi ngờ được. Và cũng vậy, tất cả các loại bạn hữu tu tập nhờ kết quả việc này mà nhận ra được và tất cả đều được giải thoát, ngay cả những người dù có những xu hướng mê muội xấu ác, chắc chắn cũng sẽ được giải thoát ở đây. ÷

Đến đây chấm dứt phần đầu của tập luận “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” : sự khai thị chỉ bày linh quang 
trong suốt giai đoạn bardo ở thời điểm đối diện 
cái chết và sự chỉ bày trong suốt giai đoạn 
bardo bình yên của Pháp tánh. ÷
iti  ÷  samaya  ÷  rgya rgya rgya ÷
 

Giờ đây là phần giảng về cách thức mà bardo của các thần xung nộ xuất hiện. ÷

Từ trước tới lúc này đã có bảy giai đoạn trong nẻo đường nguy hiểm của thời bardo của các thần bình yên, và nhờ vào sự chỉ bày ở từng mỗi giai đoạn, nên dù ông ta đã không nhận ra ở giai đoạn này thì sẽ nhận ra ở giai đoạn khác và có vô số cơ hội đạt tới giải thoát xảy ra. Mặc dù nhiều người được giải thoát như vậy, nhưng chúng sanh hữu tình nhiều vô số kể, nghiệp bất thiện rất mạnh, tấm màn vô minh điên đảo rất dày và nặng trĩu. Các xu hướng mê muội kéo dài rất lâu và cái vòng luân hồi vô minh và mê lầm này không bị xé rách cũng không tăng thêm, cho nên có rất nhiều chúng sanh không được giải thoát mà phải lang thang xuống dưới nữa dù họ đã được chỉ bày theo lối này một cách chính xác. ÷

Sau khi đã gặp các thần bình yên, chư vị Vidyadharas và dakinis, đến lượt chư vị này lại biến thành ra năm mươi tám thần xung nộ, uống máu, rực lửa xuất hiện. Giờ đây họ không giống như trước đó ; đây là bardo của các thần xung nộ nên người chết sẽ bị áp đảo bởi nỗi sợ hãi cao độ và trở nên rất khó nhận ra. Tâm không còn tự chủ và cảm thấy kiệt quệ ngất xỉu nhưng nếu còn có một ít sự nhận biết thì sự giải thoát sẽ dễ dàng, bởi vì quá đỗi sợ hãi nên tâm không có thời gian để xao lãng và vô tình, nên tâm tập trung nhất tâm. ÷

Nếu giờ đây, người chết không được sự chỉ dẫn của pháp này thì dù có vốn hiểu biết bằng đại dương cũng vô ích. Vào thời điểm này ngay cả những vị thầy tuân thủ giới luật tu viện và các đại học giả cũng đều mê lầm và sẽ không nhận ra nên họ sẽ tiếp tục lang thang trong cõi sanh tử. Những người tầm thường lại càng trầm trọng hơn ; khi lẩn tránh vì sự sợ hãi cao độ này, họ sẽ rơi xuống những cõi thấp hơn và chịu những nỗi khổ đau. Trong khi đó một hành giả tu tập Kim Cương thừa, dù là người tu tập yếu kém nhất trong số người yếu kém thì cũng sẽ nhận ra các thần uống máu đó chính là thần mệnh yidam ngay khi họ thấy, cũng giống như họ gặp lại bạn cũ, nên họ tin vào các thần đó và khi nhập vào – bất ly – với các thần, họ sẽ trở thành một vị Phật. Bí quyết là, khi còn ở cõi người, vị hành giả Kim Cương thừa đã quán tưởng các hình tướng của các thần uống máu này, họ đã thờ cúng các thần đó, và cho dù họ chỉ có nhìn qua các hình ảnh được vẽ trong tranh hay tượng thờ, vân vân, nhưng họ sẽ nhận ra các hình tướng xuất hiện lúc này đây và họ đạt tới giải thoát. ÷

Mặc dù các học giả các vị thầy, khi còn sống, đã có rất nhiều nỗ lực trong việc tuân theo giới luật khi hành trì pháp, và họ rất thông hiểu trong việc giảng giải kinh luận, nhưng khi họ chết cũng không có những dấu hiệu nào như là ngọc xá lợi,[14]* ánh sáng cầu vồng, vân vân. Khi còn sống, họ chê bai các tantras, họ không để tâm đến các tantras, họ không biết tới các thần của tantra, do đó họ không thể nhận ra các thần khi thấy xuất hiện trong bardo. Nên khi bất thình lình thấy các linh ảnh mà trước đây họ không bao giờ thấy, họ cho đó là kẻ thù và họ cảm thấy thù hận với các chư vị, và do đó họ đi xuống các cõi thấp hơn. Đó là lý do tại sao mặc dù các học giả các người tu hành tuân thủ giới luật đã là những người tốt nhưng họ không tu tập tantra nên các dấu hiệu như ngọc xá lợi, ánh sáng cầu vồng không thấy xuất hiện ở họ. ÷

Còn đệ tử của Kim Cương thừa (tantra) dù cho ông ta là người kém nhất, dù ông ta thô bạo lỗ mãng, vô học khi còn sống, thậm chí ông ta đã không có khả năng tu tập tantra nhưng chỉ cần ông ta có lòng tin đối với các tantra, ông ta không hề nghi ngờ hay bất tín tí nào, thì ông ta sẽ đạt giải thoát ở chỗ này ; nên mặc dù ông ta đã cư xử hành động không theo truyền thống đời thường nhưng khi ông ta chết ít nhất cũng có một dấu hiệu như ngọc xá lợi hay ánh sáng cầu vồng xuất hiện. Đó là bởi vì giáo pháp Kim Cương thừa này có oai lực rất lớn lao. ÷
Các vị du-già Kim Cương thừa có trình độ tâm linh trên trung bình, những người đó đã thực hành quán tưởng và thực hành hoàn tất và đã trì tụng các tâm chú, vân vân, sẽ không lang thang xuống xa hơn trong bardo pháp tánh, nhưng ngay khi họ ngưng thở, chư vị Vidyadharas, các vị điều ngự và các dakinis sẽ tiếp dẫn họ đến Cõi Hư Không Thanh Tịnh. Những dấu hiệu cho quả vị này sẽ xuất hiện như là bầu trời trong sáng, họ sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng, như là mưa hoa, mùi hương thơm, âm thanh các nhạc cụ nghe được trong không trung, các tia ánh sáng, ngọc xá lợi, vân vân. ÷

Cho nên những người như các triết gia, những người giữ giới luật, những đệ tử theo Kim Cương thừa nhưng để cho việc thực hành samaya bị biến chất và tất cả những người bình thường, sẽ không còn phương tiện nào khác ngoài bộ giáo huấn : “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này. Các thiền giả đã tu tập phép Đại Ấn và Đại Toàn Thiện[15]* và vân vân, sẽ nhận ra linh quang trong giai đoạn bardo ở thời điểm đối diện cái chết và họ đạt tới pháp thân (dharmakaya) nên đối với họ, không cần phải đọc bộ : “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này. ÷

Nếu họ nhận ra linh quang trong suốt giai đoạn bardo ở thời điểm đối diện cái chết, họ sẽ đạt tới pháp thân. Nếu họ nhận ra trong suốt giai đoạn bardo của pháp tánh khi các thần bình yên và xung nộ xuất hiện họ sẽ đạt tới báo thân (sambho-gakaya). Nếu họ nhận ra trong suốt giai đoạn bardo thác sanh (the bardo of becoming) họ sẽ đạt tới hóa thân (nirmanakaya) và được sanh ra trong một hoàn cảnh tốt hơn ở đó họ sẽ kinh nghiệm được giáo pháp này ; và vì quả của hạnh nghiệp sẽ tiếp tục ở đời tái sanh nên đó là lý do tại sao giáo pháp “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này là một pháp đưa tới giác ngộ mà không thiền định, một pháp giúp giải thoát chỉ nhờ vào sự nghe một pháp bằng phương tiện thiện xảo tiếp dẫn người phạm tội lỗi lớn có thể đi vào con đường mật truyền, một pháp chỉ trong khoảnh khắc chấm dứt vô minh, một pháp vi diệu đưa đến sự giác ngộ tức thời và toàn triệt, khiến cho chúng sanh hữu tình khi tiếp cận giáo pháp này rồi thì không thể nào sa đọa xuống cõi thấp hơn. Cả hai pháp : “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” và “Giải Thoát Bằng Cách Đeo và Mặc (vào tử thi)”[16]* cần được đọc lớn tiếng vì hai pháp này kết hợp với nhau như một mạn đà la bằng vàng được khảm bằng màu ngọc lam. ÷

Giờ đây sau khi được giảng cho nghe “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” là hết sức cần thiết, người hãy chỉ bày cách thức mà bardo của các thần xung nộ xuất hiện. Người hãy gọi tên người chết ba lần rồi hãy nói những lời này : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), con hãy lắng nghe không được xao lãng. Mặc dầu bardo của các thần bình yên đã xuất hiện nhưng con không nhận ra, nên con tiếp tục lang thang tới đây. Bây giờ vào ngày thứ tám các thần xung nộ uống máu sẽ xuất hiện. Con hãy nhận ra các vị đó, không được phân tán. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), một vị có tên là Heruka Phật Vĩ Đại Vinh Quang (Glorious Great Buddha-Heruka)[17]** sẽ nổi lên từ trong đầu con và xuất hiện trước mặt con rất rõ nét và rất thực : thân ngài màu rượu nho với ba đầu sáu tay và bốn chân soải vươn ra, gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ và gương mặt ở giữa màu rượu nho ; thân ngài sáng rực như một khối ánh sáng, chín con mắt ngài nhìn chằm chặp vào con với một khí thế xung nộ, chân mày giống như một tia chớp sáng, răng ngài lóe sáng ánh màu đồng, ngài cười lớn với tiếng “a-la-la” và “ha-ha” và phát ra những tiếng huýt sáo lớn như “shoo-oo !” Tóc màu vàng đỏ bay dốc ngược lên và sáng rực, những sọ người khô, mặt trăng và mặt trời kết thành vương miện bao quanh đầu ngài, thân ngài được trang hoàng bằng những con rắn màu đen với các đầu lâu còn tươi, ba tay bên phải tay thứ nhất cầm một bánh xe, tay giữa cầm một cái rìu, tay cuối cầm một cái gươm ; ba tay bên trái tay đầu cầm cái chuông, tay giữa cầm cái lưỡi cày tay cuối cầm cái tách bằng sọ người ; người phối hợp của ngài là Krodhisvari Phật ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ ngài, tay trái của bà cầm một sọ người đầy máu đưa tới miệng ngài ; từ trong cổ họng ngài phát ra những âm thanh ầm ầm như tiếng sấm, những ngọn lửa trí huệ bắn ra từ các sợi lông kim cương đang sáng rực trên toàn thân ngài ; ngài đứng trên cái ngai do các con chim thần garudas (kim xí điểu) đang khiêng ; ngài đứng ở tư thế một cặp chân cong lại và một cặp chân kia duỗi vươn ra. ÷

“Con đừng sợ ngài, đừng kinh hãi, đừng hoảng hốt. Con hãy nhận ra ngài chính là hình tướng của tự tâm con. Ngài là vị yidam (bổn tôn) của con, cho nên con đừng sợ hãi. Ngài thật sự là Phật Tỳ Lô Giá Na cùng với người phối hợp, cho nên con đừng sợ. Nếu con nhận ra con sẽ được giải thoát ngay tức khắc.” ÷

Khi được nghe như vậy người chết sẽ nhận ra yidam (thần bổn tôn) và khi nhập làm một – bất ly – với yidam thì người chết sẽ trở thành một báo thân Phật. ÷

Nhưng nếu ông ta vẫn sợ hãi yidam và lẩn tránh, như vậy ông ta không nhận ra, và rồi, ngày thứ chín, sự biểu lộ của bộ Kim Cương với hình tướng đang uống máu sẽ đến tiếp dẫn người chết, nên người hãy chỉ bày cho ông ta lần nữa, gọi tên ông ta và đọc những lời này : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận không được xao lãng. Vào ngày thứ chín, ảnh hiển lộ của bộ Kim Cương gọi là Heruka Kim Cương với hình tướng đang uống máu, sẽ nổi lên từ phía đông của đầu con và sẽ xuất hiện trước mặt con : thân ngài màu xanh da trời đậm, ngài có ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộng ra, gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ, gương mặt ở giữa màu xanh da trời ; với sáu tay, tay thứ nhất bên phải cầm một kim cương sử, tay giữa cầm một cái tách bằng sọ người, tay cuối cầm một cái rìu, tay thứ nhất bên trái cầm một cái chuông, tay giữa cầm một cái tách bằng sọ người, tay cuối cầm một lưỡi cày ; người phối hợp là Kim Cương-Krodhisvari ôm thân ngài, tay phải của bà quàng qua cổ ngài, tay trái của bà đang cầm một cái sọ người đầy máu đưa tới miệng ngài. ÷

“Con đừng sợ ngài, đừng kinh hãi, đừng hoảng hốt. Hãy nhận ra ngài chính là hình tướng của tự tâm con. Ngài là vị yidam của con, cho nên con đừng sợ. Ngài thực sự là đức Phật Kim Cương Tát Đỏa cùng với người phối hợp, cho nên con hãy chí thành sùng mộ. Nếu con nhận ra thì lập tức được giải thoát.” ÷

Khi được nghe như vậy ông ta sẽ nhận ra yidam và khi nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ trở thành một báo thân Phật. ÷

Nhưng với những người mà nghiệp ác xấu quá lớn sẽ sợ hãi và lẩn tránh yidam, và họ sẽ không nhận ra, rồi thì vào ngày thứ mười, ảnh hiển lộ của bộ Bảo Sanh với hình tướng đang uống máu, sẽ xuất hiện để tiếp dẫn họ. Cho nên để chỉ bày cho người chết lần nữa, người nên gọi tên người chết và đọc những lời này : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe không được xao lãng. Vào ngày thứ mười, ảnh hiển lộ của bộ Bảo Sanh tên là Heruka Bảo Sanh với hình tướng đang uống máu sẽ từ phần phía nam của đầu con xuất hiện trước mặt con : thân ngài màu vàng đậm với ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộng ra, gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ, gương mặt ở giữa sáng rực màu vàng đậm ; với sáu tay, tay thứ nhất bên phải cầm một viên ngọc, tay giữa cầm cái đinh ba có ba đầu người ở trên, tay cuối cầm một cái chùy, ba tay bên trái tay thứ nhất cầm cái chuông, tay giữa cầm một tách bằng sọ người, tay cuối cầm đinh ba ; người phối hợp là Ratna-Krodhisvari đang ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ ngài, tay trái của bà cầm một cái sọ người đầy máu đưa đến miệng ngài. ÷

“Con đừng sợ ngài, đừng kinh hãi, đừng hoảng hốt. Hãy nhận ra ngài chính là hình tướng của tự tâm con. Ngài là yidam của con, cho nên con đừng sợ hãi. Ngài thực sự là đức Phật Bảo Sanh cùng với người phối hợp, cho nên con hãy cảm thấy như đang mong đợi ngài. Nếu con nhận ra con sẽ tức thì được giải thoát.” ÷

Khi được nghe như vậy, ông ta sẽ nhận ra yidam và khi nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ trở thành một vị Phật. ÷

Nhưng nếu ngay cả khi được chỉ bày như vậy nhưng ông ta bị các xu hướng ác độc, mê muội kéo ông ta lùi lại phía sau và ông ta sợ hãi, lẩn tránh nên không nhận ra yidam, thậm chí khi ông ta thấy Yamantaka, ông ta cũng không nhận ra, nên vào ngày thứ mười một, ảnh hiển lộ của bộ Hoa Sen với hình tướng đang uống máu sẽ đến để tiếp dẫn ông ta. Cho nên để chỉ bày cho ông ta lần nữa, người nên gọi tên người chết và đọc những lời sau : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận, đừng xao lãng. Vào ngày thứ mười một, ảnh hiển lộ của bộ Hoa Sen, được gọi là Heruka-Hoa Sen Thiêng Liêng, với hình tướng đang uống máu, từ phần phía tây của đầu con sẽ nổi lên và xuất hiện trước mạët con rất rõ nét trong dạng liên kết với người phối hợp của ngài. Thân ngài màu đỏ đậm với ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộng ra ; gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu xanh da trời và gương mặt giữa màu đỏ đậm ; với sáu tay, tay thứ nhất bên phải cầm một hoa sen, tay giữa cầm một đinh ba có ba đầu người ở trên, tay cuối cầm một cây gậy. Tay thứ nhất bên trái cầm một cái chuông, tay giữa cầm một tách bằng sọ người đang chứa đầy máu, tay cuối cầm một cái trống ; người phối hợp là Padma-Krodhisvari ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ ngài, tay trái bà đang cầm một sọ người đầy máu đưa tới miệng ngài. ÷

“Con đừng sợ ngài, đừng kinh hãi, đừng hoảng hốt. Con hãy vui sướng, hãy nhận ra ngài chính là hình tướng của tự tâm con. Ngài là yidam của con, cho nên con đừng sợ, đừng kinh hãi. Ngài thực sự là đức Phật A Di Đà Thiêng Liêng cùng người phối hợp, cho nên con hãy cảm thấy mong đợi ngài. Nếu con nhận ra thì ngay lập tức con sẽ được giải thoát.” ÷

Khi được nghe như vậy ông ta sẽ nhận ra hình tướng đó là yidam và khi được nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ trở thành một vị Phật.

Nhưng nếu ngay cả khi được chỉ bày như thế mà vẫn bị các xu hướng ác độc mê muội kéo ông ta lùi lại sau và ông ta sợ hãi lẩn tránh cho nên ông ta không nhận ra yidam, rồi thì, vào ngày thứ mười hai, ảnh hiển lộ của bộ Nghiệp với hình tướng đang uống máu sẽ đến cùng với các vị thiên gauris,[18]* vị thiên pisacis có đầu súc vật, các thiên nữ hành giả yoginis đến tiếp dẫn người chết. Nếu người chết không nhận ra, ông ta sẽ sợ hãi, cho nên để chỉ bày cho ông ta lần nữa, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời sau : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận, không được xao lãng. Khi ngày thứ mười hai đến, ảnh hiển lộ của bộ Nghiệp được gọi là Heruka-Nghiệp Thiêng Liêng với hình tướng đang uống máu từ phần phía bắc của đầu con và nổi lên trước mặt con rất rõ nét trong dạng liên kết với người phối hợp ; thân ngài màu xanh lá cây đậm với ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộâng ; gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ, gương mặt ở giữa màu xanh lá cây đậm huyền diệu, ba tay bên phải tay thứ nhất cầm kiếm, tay giữa cầm đinh ba có ba đầu người ở trên, tay cuối cầm cây gậy, ba tay bên trái tay thứ nhất cầm chuông, tay giữa cầm tách sọ người tay cuối cầm lưỡi cày ; người phối hợp là Karma-Krodhisvari ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ, tay trái của bà cầm một sọ người đầy máu đưa tới miệng ngài. ÷

“Con đừng sợ ngài, đừng kinh hãi, đừng hoảng hốt. Hãy nhận ra ngài chính là hình tướng của tự tâm con. Ngài là yidam của con, nên con đừng sợ. Ngài thực sự là đức Phật Bất Không Thành Tựu cùng với người phối hợp, nên con hãy cảm thấy thiết tha sùng mộ. Nếu con nhận ra thì ngay lập tức con được giải thoát.” ÷

Khi được nghe như vậy ông ta sẽ nhận ra yidam và khi được nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ trở thành một vị Phật. ÷

Thông qua sự khai thị hướng dẫn của vị thầy (guru), ông ta sẽ nhận ra các ảnh hiển lộ chính là các phóng tưởng của tự mình, trò chơi phô diễn của tâm, và ông ta sẽ được giải thoát. Cũng giống như trông thấy một con sư tử nhồi bông chẳng hạn : ông ta sẽ rất sợ nếu không biết nó đích thực là sư tử nhồi bông, nhưng nếu có người chỉ cho biết nó là cái gì thì ông ta sẽ ngạc nhiên và không còn sợ nữa. Ở đây cũng vậy, ông ta sẽ kinh hãi hoảng hốt khi các vị yidam uống máu xuất hiện với thân hình khổng lồ, chân tay chiếm đầy cả không gian, nhưng ngay khi ông ta được hướng dẫn cho biết, ông ta sẽ nhận ra các vị đó chính là phóng tưởng của chính ông ta hay là các yidam ; lúc đó linh quang mà ông ta đã thiền định về nó trước đây và linh quang tự hiện hữu đã lộ ra sau khi chết, hai thứ linh quang mẹ và con đó sẽ nhập làm một và cũng giống như gặp lại một người mà mình đã từng quen biết rất rõ, lúc này đây linh quang vốn tự-giải thoát của tự tâm ông ta tự nhiên hiển lộ ra trước mặt ông ta và ông ta tự giải thoát. ÷

Nhưng nếu ông ta không được hướng dẫn pháp này thì dù là người tốt ông ta cũng rời khỏi nơi này và tiếp tục lang thang trong sanh tử. Lúc đó, tám thiên nữ gauris và pisacis xung nộ với nhiều đầu sẽ từ trong đầu ông ta nổi lên và xuất hiện trước ông ta, nên để chỉ bày cho ông ta lần nữa, người hãy gọi tên người chết và đọc những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cẩn thận không được xao lãng. Tám vị thiên nữ áo trắng gauris sẽ từ bên trong đầu của con nổi lên và xuất hiện trước mặt con. Con đừng sợ các vị đó. ÷

“Từ góc phía đông của đầu con một gauri trắng sẽ xuất hiện trước mặt con, tay phải cầm một thi thể có hình cây côn, tay trái cầm cái tách hình sọ người chứa đầy máu. Con đừng sợ. Từ góc phía nam, một gauri màu vàng cầm cung bắn ra một mũi tên ; từ phía tây thiên nữ Pramoha màu đỏ cầm một biểu ngữ bằng con quái vật ở biển ; từ phía bắc thiên nữ Vetali cầm một kim cương sử và một tách bằng sọ người đầy máu ; từ phía đông nam thiên nữ Pukkasi màu cam tay phải cầm nắm ruột, tay trái đưa nắm ruột đó vào miệng ăn ; từ phía tây nam thiên nữ Ghasmari màu xanh lá cây đậm tay trái cầm tách sọ người đầy máu tay phải dùng cái kim cương sử khuấy cái tách đựng máu ; từ phía tây bắc thiên nữ Candali màu vàng úa đang xé tách đầu và thân người tay phải cầm quả tim tay trái đưa thân người vào miệng ; từ phía đông bắc thiên nữ Smasani màu xanh đậm cũng đang xé tách đầu ra khỏi thân người và ăn ; tám thiên nữ gauris ở tám hướng đang vây quanh năm vị Herukas uống máu sẽ từ trong đầu con nổi lên xuất hiện trước mặt con. Con đừng sợ chư vị đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe không được xao lãng. Theo sau chư vị đó còn có tám vị pisacis từ những nơi thiêng liêng sẽ nổi lên và xuất hiện trước mặt con. ÷

“Từ phía đông thiên nữ Sinhamukha màu nho, đầu sư tử, bắt chéo tay trước ngực, đang ngậm một tử thi trong miệng và lắc lư cái bờm sư tử của mình ; từ phía nam thiên nữ Vyaghrimukha màu đỏ, đầu cọp, hai tay bắt chéo thả thõng xuống, đôi mắt nhìn trừng, đang nhe răng ra ; từ hướng tây thiên nữ Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột bên tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu ; từ phía bắc thiên nữ Svanamukha màu xanh đậm, đầu chó sói hai tay đỡ một tử thi đưa sát miệng mắt nhìn trừng trừng ; từ phía đông nam thiên nữ Grdhramukha, màu vàng úa, đầu kên kên mang một tử thi lớn vắt qua vai và cầm bộ xương trên tay ; từ phía tây nam thiên nữ Kankamukha màu đỏ đậm, đầu con diều hâu, mang bộ da lớn trên vai ; từ phía tây bắc thiên nữ Kakamukha màu đen, đầu quạ, cầm tách sọ người bên tay trái một thanh kiếm bên tay phải đang ăn tim và phổi ; từ phía đông bắc thiên nữ Ulumukha màu xanh đậm, đầu con cú, cầm chùy vajra bên tay phải và cây kiếm bên tay trái và đang ăn. Tám thiên nữ pisacis này của những nơi linh thiêng đang vây quanh năm vị Herukas uống máu sẽ từ bên trong đầu của con nổi lên và xuất hiện trước mặt con. Con đừng sợ chư vị đó. Con hãy nhận ra bất cứ cái gì xuất hiện đều là vở tuồng diễn kịch của tâm, đó là những phóng tưởng của tự con. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), bốn thiên nữ (goddesses) của bốn cổng cũng sẽ từ trong bộ óc của con nổi lên và xuất hiện trước mặt con, nên con hãy nhận ra các vị đó. ÷

“Từ góc phía đông của đầu con, thiên nữ Ankusa màu trắng, đầu cọp, cầm một cây gậy và một tách sọ người đầy máu sẽ nổi lên và hiện ra trước mặt con ; từ góc phía nam thiên nữ Pasa màu vàng, đầu heo, cầm dây thòng lọng ; từ góc phía tây thiên nữ Srnkhala màu đỏ, đầu sư tử cầm một dây xích bằng sắt ; từ góc phía bắc thiên nữ Ghanta, màu xanh lá cây, đầu rắn, cầm một quả chuông ; bốn vị thiên nữ này ở bốn cổng sẽ từ trong đầu con nổi lên và hiện ra trước mặt con. Con hãy nhận ra chư vị chính là những yidams. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), theo sau ba mươi vị herukas xung nộ, sẽ có hai mươi tám thiên nữ hành giả yoginis sẽ luân phiên nổi lên từ trong đầu con và hiện ra trước mắt con với nhiều đầu khác nhau và mang nhiều biểu tượng khác nhau. Con đừng sợ chư vị đó, hãy nhận ra bất cứ cái gì hiện ra đầu là vở tuồng diễn kịch của tâm, tức là các phóng tưởng của tự con. Lúc này là lúc tới thời điểm quan trọng, hãy nhớ tới lời giáo huấn của vị thầy của con. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), từ phía đông, sáu thiên nữ yoginis ở phía đông sẽ từ trong đầu con nổi lên và hiện ra trước mặt con : Raksasi, Nữ Quỷ, màu cam, đầu rắn, cầm hoa sen trong tay ; Mahadevi, Đại Thiên nữ, màu xanh lá cây đậm, đầu báo đang cầm một đinh ba ; Lobha, Bà Tham lam, màu xanh, đầu con chó mongoose, đang cầm một bánh xe ; Kumari, Trinh nữ, màu đỏ, đầu con gấu vàng, đang cầm ngọn giáo ngắn ; và Indrani, màu trắng với đầu con gấu nâu, đang cầm một bó ruột người trong tay. Con đừng sợ chư vị thiên nữ đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), từ phía nam có sáu thiên nữ yoginis phía nam từ trong đầu con nổi lên và hiện ra trước mặt con : Vajra màu vàng, đầu heo, cầm lưỡi dao cạo trong tay ; Santi có tên Hòa bình, màu đỏ, có đầu con quái vật ở biển, cầm một cái lọ trong tay ; Amrta có tên Rượu tiên Bất tử, màu đỏ, đầu con bò cạp, cầm cành hoa sen ; Candra tên Mặt Trăng, màu trắng, đầu chim ưng cầm chùy kim cương ; Danda, có tên là Chùy, màu xanh lá cây đậm, đầu báo, cầm một cái chùy ; và Raksasi, Nữ Quỷ, màu vàng đậm, đầu con cọp, cầm một sọ đầy máu. Con đừng sợ sáu thiên nữ yoginis đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), từ phía tây, sáu thiên nữ yoginis phía tây sẽ từ trong đầu con nổi lên và hiện ra trước mặt con : Bhaksini, có tên Thực khách, màu xanh lá cây đậm, có đầu con kên kên cầm chùy ; Rati, tên Hoan lạc, màu đỏ, đầu ngựa, cầm cái thân tử thi to ; Mahabala, tên Đại lực, màu trắng, có đầu con chim thần garuda, cầm chùy ; Raksasi, Nữ Quỷ, màu đỏ, đầu chó, đang cắt với một dao cạo bằng kim cương ; Kama, tên Ham muốn, màu đỏ, có đầu con chim đầu rìu, đang gương cung bắn ; và Vasuraksa, tên Nữ thần Che Chở sự Thịnh Vượng, màu xanh lá cây đậm, đầu con nai, cầm một cái lọ. Con đừng sợ các thiên nữ yoginis đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), từ phía bắc sáu yoginis phía bắc sẽ từ trong đầu con nổi lên và hiện ra trước mặt con : Vayudevi, có tên Thiên nữ của Gió, màu xanh da trời, đầu chó sói đang phe phẩy lá cờ ; Nari, tên Đàn bà, màu đỏ, đầu trâu, cầm một cây gậy ; Varahi, tên Lợn cái, màu đen, đầu lợn, cầm một dây thòng lọng kết bằng những cái răng ; Vajra, màu đỏ, với đầu con quạ, cầm một miếng da trẻ con ; Mahahastini, tên Voi, màu xanh lá cây đậm, đầu voi, cầm một tử thi lớn và đang uống máu tử thi đó ; và Varunadevi, Thủy Thiên nữ, màu xanh, đầu rắn, cầm một thòng lọng những con rắn. Con đừng sợ những thiên nữ yoginis đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), bốn yoginis ở các cổng sẽ từ trong đầu con nổi lên và hiện ra trước mặt con : từ phía đông, Vajra trắng, đầu con tu hú, cầm một móc sắt ; từ phía nam, Vajra vàng, đầu con dê, cầm một thòng lọng ; từ phía tây, Vajra đỏ, đầu sư tử, cầm một xâu chuỗi sắt ; từ phía bắc, Vajra màu xanh lá cây đậm, đầu rắn, cầm một cái chuông : bốn thiên nữ yoginis ở các cổng nổi lên từ trong đầu con và xuất hiện ra trước mặt con. ÷

“Hai mươi tám thiên nữ yoginis này tự nhiên xuất hiện từ vở tuồng phô diễn của hình tướng tự-hiện hữu của các thần xung nộ herukas, nên con hãy nhận ra các vị đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), pháp thân xuất hiện dưới dạng các thần bình yên, một phần của tánh Không ; con hãy nhận ra pháp thân. Báo thân xuất hiện ở dưới dạng các thần xung nộ, một phần của linh quang, nên con hãy nhận ra báo thân đó. Nếu vào lúc này năm mươi tám vị chư thiên uống máu từ trong đầu của con nổi lên và xuất hiện trước mặt con, thì con nên biết rằng bất cứ cái gì xuất hiện đều khởi lên từ sự “quán-chiếu-thấu-suốt” tỏa sáng của tự con, và con sẽ lập tức trở thành một quả vị Phật bất ly với các thần uống máu đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu với cách này mà con không nhận ra được, con sẽ sợ hãi chư vị, con sẽ lẩn tránh và tiếp tục chịu đựng thêm nhiều đau khổ. Nếu với cách này mà con không nhận ra, con sẽ thấy các vị thần uống máu như là các Thần Chết và do đó con sẽ sợ hãi họ. Con sẽ kinh hãi, hoảng hốt mất khả năng nhận biết. Các phóng tưởng của con đều sẽ biến thành các quỷ sứ và con sẽ lang thang trong sanh tử. Nhưng nếu con không sợ cũng không ưa thích thì con sẽ không lưu lạc trong sanh tử. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), các thần bình yên và xung nộ ở mức cỡ lớn nhất to bằng cả vũ trụ, ở mức cỡ trung bình to bằng núi Tu Di, ở mức cỡ nhỏ nhất cao bằng mười tám thân mình chúng ta chồng lên nhau ; nên con đừng sợ họ. Tất cả hiện tượng hiện ra với dạng ánh sáng và hình ảnh ; nên bằng việc nhận ra rằng mọi cái xuất hiện này đều chính là sự tỏa sáng tự nhiên của tự tâm con, thì sự tỏa sáng của riêng con sẽ nhập làm một bất ly với những ánh sáng và hình ảnh đó và con sẽ trở thành một vị Phật. Này con, bất cứ cái gì con thấy dù nó rất đáng sợ nhưng hãy nhận ra nó chính là phóng tưởng của tự con ; hãy nhận ra nó chính là linh quang, tức là sự chiếu sáng tự nhiên của tự tâm con. Nếu con nhận ra như vậy, con sẽ trở thành một vị Phật ngay lúc đó, không nghi ngờ gì cả. Và ngay lập tức cái gọi là sự giác ngộ tức thì trọn vẹn sẽ khởi lên. Hãy nhớ lấy ! ÷

“Này thiện nam (tín nữ), giờ đây nếu con không nhận ra và vẫn sợ hãi thì tất cả các thần bình yên sẽ xuất hiện ở dưới dạng Mahakala và tất cả các thần xung nộ sẽ xuất hiện dưới dạng Vua Pháp, tức là Thần Chết và con sẽ lang thang trong cõi sanh tử cùng với tất cả các phóng tưởng của con có đầy hình ảnh quỷ sứ. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu con không nhận ra các phóng tưởng của riêng con thì dù cho con có tu tập Pháp trong một thiên niên kỷ và biết tất cả kinh điển và tantras con cũng không trở thành một vị Phật. Nhưng nếu con nhận ra được các phóng tưởng của riêng con thì với một bí mật và với một lời thôi con cũng sẽ trở thành một vị Phật. ÷

“Nếu con không nhận ra các phóng tưởng của con, thì các phóng tưởng sẽ xuất hiện dưới dạng Vua Pháp, tức Thần Chết trong bardo pháp tánh ngay lúc con chết. Kích cỡ lớn nhất của các Thần Chết to bằng núi Tu Di ; chư vị đó sẽ đến chiếm trọn vũ trụ. Với răng cắn vào môi dưới, mắt lóng lánh như thủy tinh, tóc búi lại trên đầu, bụng rất lớn nhưng cổ rất nhỏ, đang cầm quyển ghi chép các hành nghiệp và la lớn “Đánh” và “Giết”, họ tách đầu ra khỏi thân, liếm óc, moi ra các ngũ tạng : họ đến với những kiểu cách như vậy, đông nghẹt cả vòm trời. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), khi các phóng tưởng hiện ra như vậy, con đừng sợ hãi. Con đang có một thân tinh thần gồm các xu hướng mê muội nên cho dù con có bị giết bị chặt làm nhiều khúc thì con không thể chết được. Con thật sự là tướng tự nhiên của tánh Không nên không cần phải sợ. Các Thần Chết cũng nổi lên từ tự tâm chiếu sáng của con, các vị đó không có thể xác cụ thể. Tánh Không không thể bị hại bởi tánh Không. Con hãy tin chắc rằng các thần bình yên và xung nộ ở bên ngoài các herukas uống máu, các thần có đầu súc vật cho tới ánh sáng cầu vồng, các hình tướng trông rất dễ sợ của các Thần Chết và vân vân đều không có thật (vô tự tánh), tất cả đều nổi lên từ tuồng phô diễn tự phát của tâm con. Nếu con thấu hiểu điều này thì toàn bộ sự sợ hãi sẽ tự nhiên tan biến và khi được hòa nhập một cách bất ly, con sẽ trở thành một vị Phật. Nếu bằng cách này mà con nhận ra thì các vị đó là những yidam của con. ÷

“Với sự chờ mong thiết tha, con hãy nghĩ rằng, ‘Chư vị đã đến trong nẻo đường bardo hiểm nguy này để tiếp dẫn tôi. Tôi xin quy y vào các ngài.’ Con hãy nhớ đến Tam Bảo. Con hãy nhớ đến vị yidam của con, con hãy gọi tên ngài, hãy cầu khẩn ngài với những lời như sau : ‘Con đang lang thang trong cõi bardo, xin hãy cứu con thoát khỏi nơi này, xin hãy nắm bắt con với lòng đại bi, ôi ! Ngài yidam quý báu.’ Con hãy gọi tên vị thầy và khẩn cầu ngài : ‘Con đang lang thang trong cõi bardo nên xin thầy cứu con, với lòng đại bi xin đừng ruồng bỏ con.’ Với sự mong đợi con hãy cầu khẩn các thần uống máu và đọc lời khẩn cầu linh cảm như sau : ÷

Khi đang có những xu hướng mê muội quá mạnh, con lang thang trong cõi sanh tử,
nay nương vào ánh linh quang để buông bỏ mọi sợ hãi,
con cầu xin Chư Vị Thiêng Liêng, các thần bình yên và xung nộ hãy đi trước mặt con,
các thiên nữ xung nộ, là các Nữ Chúa của Hư Không, hãy đi sau lưng con ;
xin giúp con vượt qua nẻo đường bardo hiểm nguy
và mang con đến trạng thái Phật đà toàn thiện.
Khi đã rời xa bạn bè yêu quý. Con đang lang thang một mình,
những hình tướng rỗng không của các phóng tưởng riêng của con hiện ra,
cầu xin chư Phật phát ra oai lực của lòng đại bi của các ngài,
sao cho các sự khiếp sợ trong bardo không xảy ra.
Khi năm ánh sáng quang minh của trí huệ chiếu sáng,
không chút sợ sệt, cầu xin sao cho con tự nhận ra mình ;
khi các hình tướng của chư vị bình an và xung nộ hiện ra, 
cầu xin sao cho con nhận ra bardo một cách tự tin không sợ sệt.
Khi con chịu đau khổ vì lực ác nghiệp,
cầu xin vị yidam của con tẩy sạch tất cả nỗi khổ đó ;
khi âm vang pháp tánh gầm thét như ngàn tiếng sấm,
cầu xin toàn bộ âm thanh đó trở thành âm thanh lục tự.[19]*
Khi con bị nghiệp của mình lôi kéo không nơi nương tựa,
cầu xin Đại Bi Vương là nơi nương tựa của con ;
khi con chịu đựng nghiệp của những xu hướng mê muội,
cầu xin cho đại định của hỷ lạc và linh quang hiện lên.
Cầu xin cho năm đại không nổi lên như các kẻ thù,
cầu xin cho con thấy được các cõi của năm bộ Phật. ÷

“Con hãy đọc lời khẩn cầu thiêng liêng với lòng sùng mộ sâu sắc. Tất cả nỗi sợ hãi sẽ tan biến và chắc chắn con sẽ thành một vị Phật báo thân, cho nên điều này rất quan trọng, không được xao lãng.” ÷

Những lời này nên lập đi lập lại ba đến bảy lần. Dù cho tội lỗi nặng bao nhiêu, dù các nghiệp còn tồn tại có xấu ác đến bao nhiêu thì cũng không thể nào không giải thoát được. Nhưng với những gì đã chỉ bày mà họ vẫn không nhận ra thì họ sẽ phải lang thang trong bardo thứ ba, đó là bardo thác sanh (bardo of becoming), do đó sự chỉ bày của bộ giáo huấn này sẽ hướng dẫn rất chi tiết sau đây. ÷

Dù rất thông thạo hay dù ít thông thạo trong thiền định, đa số người ta vì quá sợ đã bị lầm lẫn trong giai đoạn bardo ngay lúc đối diện cái chết, nên người ta không có phương tiện nào khác ngoài bộ “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này. Đối với những ai đã thiền định nhiều thì giai đoạn bardo pháp tánh đến bất thình lình khi tâm rời khỏi thân. Những ai đã nhận ra được tự tâm mình và đã kinh nghiệm được khi còn sống thì họ sẽ rất mạnh mẽ khi linh quang xuất hiện trong suốt giai đoạn bardo ngay lúc đối diện cái chết, do đó tu tập trong suốt cuộc đời là điều quan trọng nhất. Và những ai mà khi còn sống đã thiền định quán tưởng và những thực hành hoàn tất về các thần bổn tôn của kim cương thừa thì họ sẽ rất mạnh mẽ khi các linh ảnh thần bình yên và xung nộ xuất hiện trong suốt giai đoạn bardo pháp tánh. Do đó việc tu tâm cho thật thông suốt với bộ “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo” này là tối ư quan trọng, nhất là khi còn sống. ÷

Bộ giáo huấn này cần được thiết tha tu tập, cần được toàn triệt, cần được đọc lớn, cần được khắc cốt ghi tâm, cần được tu tập ba lần một ngày không bỏ sót lần nào ; ý nghĩa của từng lời của tập luận này cần được minh bạch trong tâm mình, lời lẽ và nghĩa của bộ giáo huấn phải không bị quên dù có trăm kẻ sát nhân thình lình xuất hiện rượt đuổi con. Bởi vì bộ giáo huấn này được gọi là “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” nên ngay cả những người đã phạm vào năm trọng tội thì cũng sẽ chắc chắn được giải thoát nếu họ nghe được bộ này, do đó cần đọc lớn trong đám đông, cần được phổ biến rộng. ÷

Giả như người ta chỉ nghe bộ giáo huấn này có một lần và chưa hiểu được, nhưng vì ở trong trạng thái bardo tâm trở nên sáng suốt gấp chín lần so với lúc thường cho nên khi ấy, bộ giáo huấn này sẽ được nhớ đến toàn bộ, không quên một chữ. Cho nên bộ giáo huấn này cần đọc toàn bộ khi còn sống, cần nên đọc bên cạnh tất cả người bệnh đang nằm, bên cạnh tất cả những người đang chết, cần được phổ biến sâu rộng. ÷

Gặp được bộ giáo huấn này là một sự may mắn vĩ đại ; rất khó gặp ngoại trừ những người mà họ đã tẩy sạch vô minh và tích tụ công đức. Nếu ai nghe được giáo huấn này và không chút nghi ngờ thì sẽ được giải thoát, do đó giáo huấn này cần được quý trọng lớn lao vì nó rút ra được tinh túy của tất cả pháp. ÷

Đến đây chấm dứt sự khai thị Bardo pháp tánh 
gọi là “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”, 
một giáo lý bardo mà nó giải thoát 
chỉ nhờ vào việc nghe và thấy. ÷
sarvamangalam ÷ 

Thành tâm tôn kính các vị thiêng liêng :
chư thầy, chư vị yidam và chư dakini ;
cầu xin chư vị gây ra sự giải thoát trong bardo.
Nương theo “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”
phần bardo pháp tánh đã được giảng trước rồi
giờ đây lời nhắc nhở của Bardo thác sanh đã tới. ÷

Mặc dầu Bardo pháp tánh đã được hướng dẫn nhiều lần ở trước, nhưng trừ những người thông thạo trong thiền định về pháp và có những nghiệp tốt, còn lại gồm những người có nghiệp xấu và vì sợ sệt, nên sự nhận biết trở nên rất khó cho những ai đã không thông thạo trong thiền định hay cho những ai rất xấu ác. Nên trong khoảng từ ngày thứ mười trở đi họ nên được nhắc nhở chỉ bày lại nữa với những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe cho khéo và hãy thấu hiểu. Hàng chúng sanh ở địa ngục, các vị trời và “thân bardo” đều được sanh ra một cách tự nhiên, tự động. Khi các thần bình yên và xung nộ hiện ra trong bardo pháp tánh, con đã không nhận ra họ nên con gần như bất tỉnh vì quá sợ trong năm ngày rưỡi, nhưng khi con hồi tỉnh lại, tâm thức của con trở nên minh bạch và một cái thân giống như cái thân trước khi chết của con khởi dậy. Trong kim cương thừa nói về thân đó như sau : ÷

Với thân vật chất trước đó và sau này của giai đoạn bardo thác sanh,
đầy đủ các giác quan hoàn chỉnh, đi đây đó không bị cản trở,
có được quyền năng kỳ diệu do nghiệp đem tới,
được thấy bởi con mắt thanh tịnh của chư thiên có cùng bản chất. ÷

“Ở đây chữ ‘trước đó’ có nghĩa rằng vì nghĩ nhớ đến nên con có được một thân giống như cái thân bằng thịt và máu của con trước đây, nhưng thân này tỏa sáng được và có những nét dáng của thân ở độ tuổi tốt đẹp nhất. Đây là kinh nghiệm của một thứ thân tinh thần, nên nó được gọi là thân tinh thần của kinh nghiệm bardo. Vào lúc này nếu con sắp sửa tái sanh làm một vị trời, con sẽ kinh qua cõi chư thiên, cũng thế khi con sắp tái sanh ở bất cứ cõi nào, như cõi Atula, cõi người, súc sanh, quỷ đói, địa ngục thì con sẽ có kinh nghiệm của cõi đó. Do đó, chữ ‘trước đó’ có nghĩa rằng khi nghĩ nhớ trong suốt bốn ngày rưỡi mà con có được thân vật chất của những ký ức hồi tưởng về thân trước kia của con và chữ ‘sau này’ có nghĩa rằng sau đó con sẽ có được những kinh nghiệm về cõi mà con sắp sửa tái sanh ; do vậy mới nói ‘trước đó’ và ‘sau này’. ÷

“Lúc này đây bất cứ phóng tưởng nào nổi lên, con cũng đừng đi theo chúng hay ưa thích chúng hay thương tiếc chúng. Nếu con ưa thích hay thương tiếc chúng con sẽ lang thang trong sáu cõi và chịu đựng khổ đau. ÷

“Mặc dầu các phóng tưởng của bardo pháp tánh đã hiện ra liên tục cho tới hôm qua nhưng con đã không nhận ra chúng, nên con đã phải lưu lạc tới đây. Giờ đây nếu con có khả năng thiền định không tán loạn, con hãy an định trong tâm trần trụi thanh tịnh, (đó là) tánh Không – linh quang mà thầy con đã chỉ bày cho con, (tâm đó) được buông xả trong trạng thái vô thủ vô tác. Con sẽ đạt tới giải thoát và không đi vào một mẫu thai. ÷

“Nếu con không thể nhận ra, con hãy quán tưởng vị yidam của con hay vị thầy của con ở cao lưng chừng trên đầu con và con hãy cảm thấy sự thành tâm sùng mộ sâu sắc. Điều này rất ư quan trọng. Hãy quán tưởng liên tục, không được tán loạn.” ÷

Cho nên người nói như vậy. Nếu người chết nhận ra điều này ông ta sẽ được giải thoát và không còn lang thang trong sáu nẻo luân hồi. Nhưng với ảnh hưởng của nghiệp xấu ác thì rất khó nhận ra điều đó, nên người nên nói nhưng lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe với tâm không tán loạn. ‘Đầy đủ các giác quan hoàn chỉnh’ có nghĩa rằng cho dù khi còn sống con đã bị mù, điếc, què quặt vân vân nhưng giờ đây trong thời bardo, mắt con thấy được, tai nghe được, tất cả các giác quan trở nên minh mẫn không khuyết tật ; cho nên nóùi là đầy đủ các giác quan hoàn chỉnh. Đây là dấu hiệu cho thấy con đã chết và đang lang thang trong trạng thái bardo, cho nên con hãy nhận ra, hãy nhớ đến những lời chỉ dẫn này. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), ‘không bị cản trở’ có nghĩa vì con đang là thân tinh thần và tâm con bị lìa khỏi nơi nương tựa, con không có thân vật chất, cho nên giờ đây ngay cả núi Tu Di con cũng có thể đi qua đi về được, hay bất kể nơi nào ngoại trừ mẫu thai và tòa kim cương.[20]* Đây là dấu hiệu rằng con đang lang thang trong cõi bardo thác sanh, nên con hãy nhớ đến lời dạy của vị thầy và con khẩn cầu đức Đại Bi Vương (tức Quán Thế Âm Bồ tát). ÷

“Này thiện nam (tín nữ), ‘có được quyền năng kỳ diệu do nghiệp’ đem tới có nghĩa rằng giờ đây con có quyền năng kỳ diệu từ nghiệp lực tương ứng với tác hành của con chứ không phải từ thiền định hay công đức. Con có thể dạo quanh bốn châu lục và núi Tu Di trong khoảnh khắc, hễ con nghĩ tưởng một nơi nào thì lập tức con ở ngay nơi đó, con có thể đi nhanh bằng thời gian một người vừa đưa tay ra rồi thụt tay vào tức thì. Giờ đây con có khả năng thực hiện các hành động không chút cản trở, con có thể làm mọi điều con nghĩ tới, không có việc gì con không thể làm. Nhưng các quyền năng đủ mọi dạng này không thích hợp, con đừng nghĩ đến các quyền năng đó ; con hãy nhận ra, và khẩn cầu vị thầy của con. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), ‘được thấy bởi con mắt thanh tịnh của các chư thiên có cùng bản chất’ có nghĩa rằng trong trạng thái bardo những ai sắp sanh cùng cõi sẽ thấy được nhau, cho nên những ai sắp sanh ra làm chư thiên sẽ thấy được nhau. Cũng theo cách đó bất cứ chỗ nào trong sáu cõi sanh tử họ sắp sanh vào thì những ai cùng bản chất sẽ trông thấy được nhau. Cho nên con đừng tiếc nuối các cõi đó mà hãy thiền định về đức Đại Bi Vương. ‘Được thấy bởi con mắt thanh tịnh của các chư thiên’ cũng còn có nghĩa là được thấy bằng con mắt thiêng liêng thanh tịnh của các thiền giả trong đại định thật sự chứ không chỉ riêng con mắt đến từ công đức của các vị trời mà thôi. Nhưng các thiền giả không phải lúc nào cũng thấy ; nếu họ tập trung thiền định họ sẽ thấy, nhưng nếu họ không thiền định hay nếu sự thiền định bị phân tán thì họ không thấy. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), với một loại thân như thế này, con sẽ thấy gia đình nhà cửa của con như thể con đã từng gặp họ trong một giấc mộng nhưng mặc dù con nói với họ con chẳng thấy họ trả lời ; con sẽ thấy bà con quyến thuộc khóc lóc, nên con sẽ nghĩ rằng, ‘Tôi chết rồi, tôi sẽ làm gì ?’ và con sẽ cảm thấy một nỗi đau dữ dội giống như nỗi đau của con cá đang lăn trên cát nóng. Nhưng giờ đây sự đau khổ không có ích lợi gì. Nếu con có vị thầy, con hãy khẩn cầu ngài, hay con khẩn cầu vị yidam, đức Đại Bi Vương. Dù con quá quyến luyến bà con thân thích cũng chẳng ích gì, cho nên con đừng quyến luyến. Con hãy khẩn cầu đức Đại Bi Vương và sẽ không có đau khổ hay sợ hãi. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), vì bị gió nghiệp thổi tung lên, và vì không có chỗ bám trụ (không còn có thân) nên tâm của con cưỡi một cách bất lực trên con ngựa của ngọn gió nghiệp – con như thể một chiếc lông bị thổi quay cuồng di chuyển không ngừng. Con sẽ nói với những bà con đang khóc, ‘Tôi đang ở đây, đừng khóc nữa’, nhưng họ không nhận biết con, nên con nghĩ, ‘Tôi đã chết’ và giờ đây con sẽ cảm thấy nỗi đau kinh khủng. Chớ đau khổ như vậy. Trong suốt thời gian này sẽ có một làn khói mỏng màu xám tợ như ánh sáng mờ đục buổi bình minh mùa thu, chẳng phải ban ngày chẳng phải ban đêm. Kiểu trạng thái bardo này sẽ kéo dài trong một, hai, ba, bốn, năm, sáu, hay bảy tuần, lên tới bốn mươi chín ngày. Nỗi đau khổ trong bardo thác sanh được nói là thường kéo dài trong hai mươi mốt ngày nhưng điều này không hoàn toàn chắc chắn bởi vì nó tùy thuộc vào ảnh hưởng của nghiệp. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), vào lúc cơn lốc xoáy rất lớn của nghiệp, một cơn lốc đáng sợ, không thể chịu đựng được, quay cuồng dữ dội, từ phía sau đẩy con tới. Con đừng sợ cơn lốc đó, đó chính là phóng tưởng mê lầm của con. Bóng tối đen dày đặc rất kinh hãi, không chịu nổi, sẽ đi đằng trước mặt con cùng với những tiếng kêu rùng rợn như tiếng thét ‘Đánh và Giết’. Con đừng sợ những điều đó. Đối với ai đã làm những điều ác ghê gớm thì nhiều con quỷ ăn thịt tươi sẽ hiện ra do bởi nghiệp của họ, các con quỷ mang nhiều vũ khí khác nhau, la lớn những tiếng hô xông trận như ‘Giết’ và ‘Đánh’ và vân vân. Con sẽ cảm thấy như con bị thú dữ đang rượt đuổi con cùng với kẻ thù lớn như những trận mưa tuyết, bão, bóng tối đen cũng đang bám theo con. Có những âm thanh như núi sụp đổ, nước lũ ở hồ sông đổ ập tới, trận lửa cháy rào, những ngọn gió xoắn dữ dội. Vì quá sợ, con sẽ chạy trốn vào nơi nào có thể trốn được, nhưng con bị khựng lại bởi ba vực thẳm đáng sợ trước mắt con, màu trắng, đỏ, đen và con gần như bị rơi vào đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), đó không phải là các vực thẳm có thật, đó là tham, sân, si. Giờ đây con hãy nhận ra đây là bardo thác sanh, con hãy gọi tên đức Đại Bi Vương : ‘Ôi ! Đức Đại Bi Vương, thầy con, Tam Bảo, xin đừng để con (tên) rơi vào địa ngục.’ Con hãy khẩn cầu một cách tha thiết như vậy ; con đừng quên. ÷

“Đối với những người đã tích tụ phước đức, rất đạo đức, đã tu tập pháp một cách chân thành thì đủ mọi sự thọ dụng toàn diện sẽ tiếp dẫn họ, và họ sẽ kinh nghiệm được đủ tất cả mọi phúc lạc và hạnh phúc. Đối với những người mê muội thờ ơ, những người chẳng thiện chẳng ác, họ sẽ không kinh qua sự sung sướng hay đau khổ và chỉ có sự thờ ơ lãnh đạm, sự mê muội hiện ra với họ. Cho dù bất cứ điều gì nổi lên, này thiện nam (tín nữ), dù bất cứ sự vui thú nào, hay đối tượng được mong ước nào đó hiện ra, con cũng đừng quyến luyến chúng, hay thương tiếc chúng. Con hãy cúng dường những thứ đó cho vị thầy và Tam Bảo. Con hãy buông bỏ sự tham luyến, sự mong ước trong tim con. Và nếu kinh nghiệm về sự bàng quan khởi lên được mà không có sự vui hay khổ thì con hãy an định tâm con trong trạng thái Đại Ấn của sự không thiền định không-tán-loạn. Điều này rất quan trọng. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), vào lúc này, những chiếc cầu, những đền thờ, tu viện, nhà tranh, cái tháp, vân vân sẽ là nơi trú ngụ của con trong chốc lát nhưng con không ở đó lâu được. Bởi vì tâm con bị tách rời khỏi thân nên con không thể cư ngụ ổn định, con cảm thấy tức giận và lạnh lùng và thức của con trở nên nhẹ bổng như không khí, di chuyển rất nhanh, thay đổi liên tục, không thường hằng. Rồi thì, con sẽ nghĩ rằng, ‘Than ôi ! Tôi chết rồi ! Giờ đây tôi làm gì ?’ và đang khi suy nghĩ như vậy lòng con sẽ bất ngờ trở nên trống rỗng và lạnh lẽo, và con cảm thấy một nỗi đau sâu sắc, vô tận. Bởi vì con phải tiếp tục lang thang không ổn định ở một nơi nào, nên con đừng bận tâm với đủ loại khởi niệm của mình mà con hãy an định tâm mình trong trạng thái căn bản của tâm. ÷

“Giờ đây là lúc con chẳng còn gì để ăn ngoại trừ những thực phẩm được cúng cho ăn và cũng không ý thức rõ rệt về bạn bè. Đây là dấu hiệu thân tinh thần đang lang thang trong giai đoạn bardo thác sanh. Vào lúc này nghiệp lực sẽ xác định niềm vui hay nỗi đau. Con sẽ thấy quê nhà họ hàng bạn bè, con sẽ thấy thi thể của con, con sẽ nghĩ rằng, ‘Giờ đây tôi đã chết, tôi nên làm gì đây ?’ Thân tinh thần sẽ đang ở trong tình trạng đau đớn cùng cực nên con nghĩ rằng, ‘Giờ đây tại sao không đi tìm một cái thân ?’ và con kinh qua sự tìm kiếm mọi nơi để có một cái thân. Bởi vì phải trải qua một thời gian lâu trong bardo pháp tánh nên dù con có muốn đi vào thi thể con đến chín lần nhưng lúc đó nếu đang là mùa đông thì thi thể đã đóng băng, nếu đang mùa hè thi thể bị thối rữa hay gia đình đã chi thiêu táng hay chôn trong mộ hay cho chim ăn nên chẳng tìm được chỗ để nhập vào, con sẽ rất tuyệt vọng, và có cảm giác như bị các tảng đá núi đè ép thân con. Chịu đựng đau đớn như vậy là bardo thác sanh, dù con đi tìm một cái thân thì cũng chẳng tìm thấy gì ngoài sự đau đớn, cho nên con hãy cắt đứt sự luyến tiếc đi tìm một cái thân và con hãy an định trong trạng thái vô tác không tán loạn.” ÷

Khi được khai thị chỉ bày theo cách này, sự giải thoát khỏi bardo sẽ đạt tới được. Nhưng nếu vì nghiệp lực xấu ác, nên bất chấp sự chỉ bày như vậy, ông ta cũng không thể nào nhận ra, thì người nên gọi tên người chết và nói những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ) (tên), hãy lắng nghe. Chính vì nghiệp mà con phải chịu đau đớn như thế này, nên con không thể đổ lỗi cho ai khác được. Đó là nghiệp của con, giờ đây con nên thiết tha khẩn cầu Tam Bảo thì con sẽ được che chở. Nếu con không khẩn cầu giống như thế, và không biết sự thiền định Đại Ấn, con cũng không biết thiền định về vị yidam của con, thì bây giờ thiện tâm ở trong con sẽ thu thập tất cả các thiện hạnh của con và đếm bằng những hòn sỏi trắng, và ác tâm ở trong con sẽ thu thập tất cả các ác hạnh của con và đếm bằng những hòn sỏi đen. Vào lúc này con sẽ sợ hãi kinh khủng, con sẽ run lên và con sẽ nói láo rằng, ‘Tôi không có tội’ và Thần Chết sẽ nói, ‘Ta sẽ nhìn vào cái kính chiếu nghiệp’, khi vị thần ấy nhìn vào kính đó tất cả những thiện hạnh và ác hạnh của con sẽ lập tức hiện ra trong gương phân biệt rất rõ ràng, nên dù con có nói láo cũng vô ích. Rồi Thần Chết sẽ cột chặt dây thừng quanh cổ con và siết chặt, cắt đứt đầu con, xé rách tim con, moi ruột con ra, liếm óc con, uống máu con, ăn thịt tươi của con, gặm xương con ; nhưng con không chết dù thân con bị cắt ra làm nhiều mảnh nhưng con sẽ trở lại nguyên vẹn. ÷

“Việc bị cắt xé thân tái diễn nhiều lần làm cho con đau đớn vô cùng, cho nên con đừng sợ khi những hòn sỏi trắng được đếm, con đừng nói láo và con đừng sợ Thần Chết. Bởi vì con có thân do thức sanh nên con không thể chết cho dù con bị giết, bị cắt lìa ra. Con thực sự là hình tướng rỗng không tự nhiên, đó là các phóng tưởng mê lầm của riêng con, và con là sự rỗng không, tức là một thân tinh thần – của những xu hướng định kiến mê muội. Tánh Không không thể làm hại tánh Không được, cái không tự tánh không thể làm hại cái không tự tánh được. Các Thần Chết, chư thiên, các linh hồn quỷ dữ, quỷ đầu bò, vân vân (thấy) ở bên ngoài đều không có thực thể nào khác ngoài những phóng tưởng mê lầm của riêng con, con hãy nhận ra điều này. Ngay lúc này đây, con hãy nhận ra mọi thứ chỉ là bardo. ÷

“Con hãy thiền định về đại định của Đại Ấn (the Samadhi[21]* of the Great Symbol). Nếu con không biết cách thiền định, con hãy nhìn kỹ vào thực chất của cái làm con sợ và con sẽ thấy tánh Không, (tức là) không có bản chất nào cả (vô tự tánh) : đây là pháp thân. Nhưng tánh Không này không phải là sự phủ định (không có gì cả), bản chất của nó dễ gây sợ hãi, đó là tâm với sự tỉnh giác (nhận biết sáng suốt) vĩ đại và sự sáng tỏ tuyệt vời, đây là tâm của báo thân. Tánh Không và linh quang không hề tách rời nhau, bản chất của tánh Không là linh quang và bản chất của linh quang là tánh Không. Giờ đây tánh Không-linh quang không tách rời này, cái tâm trần trụi này được lột bỏ không che đậy, và trụ trong trạng thái vô sanh của nó : đây là svabhavikakaya.[22]* Năng lực tự nhiên của nó nổi lên khắp mọi nơi không hề ngăn ngại : đây là hóa thân đại bi (compassionate nirmanakaya). ÷
“Này thiện nam (tín nữ), con hãy thấy như vậy đó, không được tán loạn. Ngay khi con nhận ra, con sẽ đạt tới sự giác ngộ trọn vẹn trong bốn thân. Đừng bị phân tán. Đây là đường ranh phân chia, nơi mà chư Phật khác với chúng hữu tình. Chính trong khoảnh khắc này, người ta nói rằng : ÷

Chính trong một niệm họ bị chia biệt,
cũng chính trong một niệm, giác ngộ viên mãn. ÷

“Từ trước đến hôm qua, con đã bị tán loạn nên mặc dầu có biết bao nhiêu trạng thái bardo hiện ra nhưng con đã không nhận ra được và con quá sợ. Giờ đây nếu con bị tán loạn nữa thì sợi dây đại bi sẽ bị cắt đứt và con sẽ đi tới một nơi không có cơ hội giải thoát, cho nên con hãy cẩn thận.” ÷

Với sự chỉ bày như thế này, cho dù trước đó không nhận ra, nhưng giờ đây người chết sẽ nhận ra và đạt tới giải thoát. Nếu ông ta là người tu tại gia không biết cách thiền định như vậy, thì người nên nói những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu con không biết cách thiền định như thế nào, con hãy nhớ đến Phật, Pháp, Tăng và Đại Bi Vương và con hãy cầu khẩn chư vị. Con hãy thiền định rằng tất cả các phóng tưởng kinh hãi đó đều là Đại Bi Vương hay vị yidam của con. Con hãy nhớ đến vị thầy và pháp danh pháp tự của con khi còn sống và con nói cho vị Vua Pháp tức Thần Chết biết tên đó. Dù con có rơi xuống vực con cũng không bị thương ; nên con hãy xả bỏ sự kinh sợ.” ÷

Được chỉ bày bằng những lời này dù trước đó ông ta không được giải thoát thì giờ đây ông ta sẽ được giải thoát ở đây. Nhưng rất có khả năng ông ta không thể nhận ra và không được giải thoát nên người cần nỗ lực lần nữa, gọi tên ông ta và nói những lời sau đây : ÷

“Những kinh nghiệm hiện tại sẽ ném con vào trong các trạng thái trong đó sự vui thích và sự buồn khổ thay thế nhau liên tục trong từng sát na như một cỗ máy bắn đá, nên giờ đây con đừng tạo ra bất kỳ sự ham muốn hay sân hận nào cả. ÷

“Nếu con sắp được sanh ra trong một cõi giới cao hơn, vào lúc các kinh nghiệm của cõi giới đó hiện ra nhưng đồng thời bà con thân thuộc ở nơi con vừa rời bỏ đang giết nhiều súc vật để cúng lễ cho con nên con sẽ khởi lên những khởi niệm bất tịnh, con sẽ cảm thấy sự tức giận dữ dội và chính sự việc đó sẽ khiến con thác sanh vào cõi địa ngục. ÷

“Nếu con quyến luyến tài sản của con đã bỏ lại phía sau, hay con luyến tiếc những tài sản đó vì nghĩ rằng người khác đang làm chủ hay hưởng thụ chúng, con sẽ nổi cơn tức giận họ, và điều này sẽ chắc chắn khiến con thác sanh vào cõi địa ngục hay cõi quỷ đói mà lẽ ra con sắp sanh vào cõi cao hơn. Dù con có luyến tiếc các tài sản con đã bỏ lại thì con cũng không thể lấy lại được đâu ; như vậy chẳng ích gì cho con, nên con hãy buông bỏ sự ham muốn luyến tiếc tài sản, con hãy từ bỏ chúng, con hãy các lập một quyết định cương quyết. Dù ai đang hưởng tài sản đó con cũng đừng sanh tâm ham của cải, con hãy bỏ qua nó. Với sự tập trung nhất tâm con hãy nghĩ rằng con đang cúng dường tài sản cho vị thầy và Tam Bảo và hãy an trụ trong trạng thái không tham luyến. ÷

“Khi nghi lễ ‘kankani’ cho người chết được tụng đọc cho con và phép ‘tịnh hóa khỏi đi vào các cõi thấp’ và vân vân được cử hành vì ích lợi của con, nhờ vào một thức siêu nhiên và tinh vi do nghiệp phát sinh, con sẽ thấy các nghi lễ này thực hiện một cách giải đãi, không thanh tịnh, lơ là và còn nhiều sự bất kính nữa, với thái độ cẩu thả, không giữ đúng các giới luật, các thệ nguyện thiêng liêng của hành giả kim cương thừa, con sẽ thấy mất lòng tin ở họ vì họ thiếu đức tin, con nhận biết được ở họ những hành động tội lỗi vì sợ những điều bất tịnh trong khi cử hành nghi lễ và rồi con nghĩ rằng, ‘Than ôi ! Họ đang lừa dối tôi, chắc chắn họ đang lừa dối tôi !’ Vì nghĩ như vậy con sẽ buồn vô hạn, tuyệt vọng, hoàn toàn không còn cảm thấy sự sùng mộ thuần tịnh, con sẽ mất lòng tin, và điều này chắc chắn khiến con đi vào cõi thấp hơn. Điều này không chỉ vô ích mà còn có hại cho con, cho nên dù các bạn đồng đạo đang cử hành tang lễ không nghiêm chỉnh, bất tịnh con hãy bỏ qua chuyện đó, và với lòng thành kính chân thật con nghĩ rằng, ‘À ! Các phóng tưởng của tôi ắt hẳn bất tịnh chứ các kinh của Phật làm sao có thể bất tịnh ? Sự thể này là do các phóng tưởng bất tịnh của riêng tôi, cũng giống như trông thấy những vết dơ trên gương mặt của mình ở trên gương. Đối với những người này, thân của họ là Tăng đoàn, lời của họ là Pháp thiêng liêng, và tâm của họ là tánh của Phật do đó tôi quy y vào họ.’ Suy nghĩ được như vậy rồi thì bất cứ việc gì được làm ở nơi lễ tang cũng sẽ trở nên có lợi cho con, nên theo cách này điều rất quan trọng là làm sao có được những khởi niệm thanh tịnh, con không được quên điều này. ÷

“Nếu con sắp sanh ra một trong ba cõi thấp hơn, vào lúc các kinh nghiệm của cõi đó hiện ra khi đó bà con quyến thuộc ở nơi con đã ra đi đang cử hành các nghi lễ tang chế rất nghiêm túc, tinh sạch có hiệu lực, các vị thầy tế lễ là những người đang tu tập thánh pháp với tâm, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh, con sẽ cảm thấy sự hoan hỷ tràn ngập khi thấy buổi lễ như vậy và như vậy sẽ khiến con lập tức được sanh ra trong cõi cao hơn cho dù lẽ ra con sắp sanh vào cõi thấp ; cho nên việc cử hành lễ thanh tịnh rất có ích lợi. Cho nên điều rất quan trọng là đừng có những tư tưởng bất tịnh mà nên cảm thấy một sự sùng tín trọn vẹn và không thành kiến (vô tư) ; con hãy cẩn thận như vậy. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nói tóm lại giờ đây trong trạng thái bardo vì không có cái thân làm chỗ trụ lại nên tâm con rất nhẹ rất dễ di chuyển và bất cứ khởi niệm nào nổi lên trong tâm dù thiện hay ác đều rất mãnh liệt, cho nên con đừng nghĩ tới những hành vi độc ác mà hãy nhớ tới sự tu tập công đức. Nếu con không có sự tu tập, con hãy cảm thấy sự thiết tha sùng tín cùng với những tư tưởng trong sạch. Con hãy khẩn cầu vị yidam của con và đức Đại Bi Vương với sự tập trung cao độ, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷


Khi xa lìa bạn bè thân thuộc và lang thang một mình,
các hình tướng trống rỗng của các phóng tưởng của con hiện ra,
cầu xin chư Phật ban cho oai lực đại bi của các ngài,
để cho những nỗi khiếp sợ của bardo không đến.
Khi con chịu khổ đau vì nghiệp lực bất thiện,
cầu xin vị yidam của con tẩy sạch mọi khổ đau ;
khi âm thanh pháp tánh ầm ầm như ngàn cơn sấm nổ,
cầu xin tất cả trở thành âm thanh của lục tự.
Khi con bị nghiệp kéo đi chẳng có nơi nào quy y 
nương tựa,
cầu xin đức Đại Bi Vương là chỗ quy y nương tựa của con ;
khi con chịu đau khổ vì các xu hướng tập nghiệp mê muội,
cầu xin đại định của an lạc và linh quang hiện lên. ÷

Con hãy đọc lời khẩn cầu này rất tha thiết ; chắc chắn nó sẽ dẫn dắt con trên con đường đạo. Con hãy tuyệt đối tin tưởng rằng nó không hề sai lầm, điều này rất ư quan trọng.” ÷

Khi được đọc cho nghe như vậy, người chết sẽ nhớ tới, sẽ nhận ra và do đó sẽ đạt tới giác ngộ. Nhưng dù người đọc đi đọc lại nhiều lần mà ông ta rất khó khăn để nhận ra được vì bị ảnh hưởng của quá nhiều nghiệp bất thiện nên việc đọc lại nhiều lần nữa là rất có lợi. Người hãy gọi tên người chết lần nữa và nói những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu con đã không thấu hiểu những gì đã qua đi từ trước đến giờ, thì từ giờ trở đi cái thân của con trước khi chết sẽ trở nên mỗi lúc mờ nhạt dần và cái thân sắp tái sanh sẽ trở nên càng lúc càng rõ, cho nên con sẽ cảm thấy buồn và nghĩ rằng, ‘Tôi đang phải chịu đựng tình cảnh đau khổ thế này thôi thì tôi sẽ đi tìm và chấp nhận bất cứ loại thân nào hiện ra’, và rồi con sẽ đi lung tung đi tới, đi lui, hướng đến bất cứ cái gì hiện ra. Sáu thứ ánh sáng của sáu cõi sanh tử sẽ chiếu sáng, và ánh sáng của cõi giới mà con sắp tái sanh vì nghiệp của mình sẽ chiếu sáng nhất. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), hãy lắng nghe. Nếu con hỏi sáu ánh sáng đó thế nào thì hãy lắng nghe : ánh sáng trắng dịu là của cõi trời, ánh sáng đỏ dịu là của cõi Atula, ánh sáng xanh da trời là của cõi người, ánh sáng xanh lục là của cõi súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng màu khói xám là của cõi địa ngục. Ngay lúc đó thân con sẽ nhận lấy màu của cõi mà con sắp sanh ra. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), vào lúc này điểm tối ư quan trọng của bộ giáo huấn này như sau : dù cho ánh sáng nào chiếu rõ hơn, con cứ thiền định ánh sáng đó là Đại Bi Vương. Hãy thiền định vào ý tưởng rằng khi ánh sáng hiện ra thì đó chính là Đại Bi Vương. Đây là điểm cốt lõi sâu sắc nhất, nó rất quan trọng và ngăn ngừa tái sanh. ÷

“Hãy thiền định rất lâu vào bất cứ vị thần nào, vào vị yidam của con, hãy thiền định vị yidam đó chính là một linh ảnh không hề có bất kỳ bản chất thật của riêng nó, giống như một ảo huyễn. Đây gọi là thân huyễn thanh tịnh. Rồi thì hãy để vị yidam biến mất các đường nét từ ngoài vào trong và an định một lúc trong trạng thái không thể nghĩ bàn của tánh Không-linh quang, không trụ ở đâu cả. Hãy thiền định lại nữa vào vị yidam, rồi thiền định lại nữa vào linh quang. Hãy thiền định xen kẽ như vậy và sau đó cũng để tâm của con biến mất các đường nét từ ngoài vào trong. Bất cứ ở đâu có hư không ở đó có tâm, và bất cứ ở đâu có tâm ở đó có pháp thân ; con hãy an định trong trạng thái đơn thuần và vô ngã của pháp thân.” ÷

Trong trạng thái này, sự tái sanh được ngăn lại và ông ta sẽ trở thành một vị Phật. Nhưng với những người tu tập kém yếu và những người đã không thuần thục trong thiền định, họ sẽ không hiểu, và vẫn lầm lẫn, họ sẽ lang thang vào cửa mẫu thai, cho nên những lời khai thị hướng dẫn này cho việc đóng cửa mẫu thai là rất quan trọng. Người nên gọi tên người chết và nói những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu con đã không nhận ra những gì đã xảy ra trước đây thì giờ đây con sẽ cảm thấy rằng con đang di chuyển đi lên đi xuống đi qua đi lại do nghiệp lực lôi kéo nên ngay lúc này con hãy thiền định Đại Bi Vương, con nhớ như vậy ! ÷

“Bấy giờ, con sẽ kinh nghiệm giống như mô tả trước, như là gió xoáy, bão tuyết, mưa đá, xung quanh tối đen và nhiều người săn đuổi con và con sẽ lẩn tránh họ. Những ai khi còn sống không tu tập công đức sẽ cảm thấy rằng họ đang phải lẩn tránh nơi khổ đau, còn những ai có công đức họ sẽ cảm thấy rằng họ đang đến nơi hoan hỷ. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), vào lúc này tất cả những biểu hiện về nơi chốn, xứ sở nơi mà con sắp tái sanh sẽ hiện ra, nên con hãy lắng nghe cẩn thận không được xao lãng bởi vì ở đây có nhiều điều chỉ dẫn cốt lõi sâu sắc. Cho dù trước đây con đã không hiểu được những bí quyết để nhận biết nhưng giờ đây ngay cả một người dù tu tập rất yếu kém cũng sẽ nhận ra được vào lúc này, cho nên con hãy lắng nghe. ÷

“Vào lúc này điều rất quan trọng là phải hết sức chú ý đến phương pháp đóng cửa lối vào mẫu thai. Có hai phương pháp : làm dừng lại con người đi vào mẫu thai và đóng cửa lối vào mẫu thai sắp nhận người vào. Sau đây là khai thị chỉ dẫn việc ngăn chặn con người đi vào mẫu thai : ÷

“Này thiện nam (tín nữ) (tên), con hãy quán tưởng rõ ràng vị thần nào là vị bổn tôn của con, hãy quán tưởng vị đó như là một linh ảnh không có tự tánh riêng, giống như ảo huyễn hay bóng của mặt trăng trong mặt hồ. Nếu con không có vị yidam riêng cho mình thì chính đức Đại Bi Vương là vị yidam của con ; con hãy quán tưởng vị yidam một cách sinh động rõ nét. Rồi thì hãy để vị yidam biến mất các đường nét từ ngoài vào trong và con thiền định vào linh quang-tánh Không không hề có bất kỳ đối tượng nào của niệm. Đây là bí quyết sâu sắc ; người ta nói rằng bằng cách đó mẫu thai sẽ không được vào, nên hãy thiền định theo cách này. ÷

“Nhưng nếu cách này không làm dừng con được và con đích thị sắp sửa đi vào mẫu thai thì cũng có những hướng dẫn sâu sắc về cách đóng cửa lối vào mẫu thai sắp nhận người vào, nên con hãy lắng nghe. Con hãy lập lại theo ta những lời trích từ “Những Câu Kệ Chánh về Bardo” : ÷

Giờ đây khi bardo thác sanh hiện lên cho tôi,
tôi sẽ thiền định tập trung nhất tâm
và cố kéo dài quả của thiện nghiệp,
đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước ;
đây là lúc khi mà sự kiên trì và niềm thanh tịnh là rất cần thiết,
hãy buông bỏ ganh tỵ và thiền định vào vị thầy cùng với người phối hợp của ngài. ÷

Con hãy nói những lời này rõ ràng lớn tiếng và đánh thức tâm của con ; điều rất quan trọng là thiền định về ý nghĩa của lời kệ đó và đưa nó vào thực hành. ÷

“Ý nghĩa của nó như thế này : ‘Giờ đây khi bardo thác sanh hiện lên cho tôi’ có nghĩa rằng con giờ đây lang thang trong bardo thác sanh. Biểu hiện của sự việc đó là : nếu con nhìn vào nước con sẽ không thấy bóng của con trong nước, thân của con không có bóng. Giờ đây con không có thân vật chất bằng thịt và máu nhưng con đang là những biểu hiện của thân tinh thần lang thang trong bardo thác sanh. Nên giờ đây con phải thiền định tập trung nhất tâm là điều quan trọng nhất. Nó giống như điều khiển con ngựa bằng dây cương. Bất cứ việc gì mà con tập trung tâm vào đó thì nó sẽ hiện ra cho nên con chớ nghĩ đến các hành vi ác độc, nhưng con hãy nghĩ đến pháp, đến giáo lý, những lúc truyền giao tâm pháp, những xác quyết đối với kinh điển chẳng hạn như bộ giáo huấn “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này mà con đã nhận được lúc còn sống và con cố kéo dài các quả của thiện nghiệp. Điều đó rất quan trọng. Con đừng quên, con đừng phân tán tư tưởng. Giờ phút này là điểm phân ranh giữa hai đường đi lên và đi xuống ; đây là lúc mà nếu con rơi vào lười biếng thậm chí chỉ trong một chốc lát con cũng phải chịu khổ đau mãi mãi ; đây là lúc khi mà, bằng sự tập trung nhất tâm, con sẽ được hạnh phúc mãi mãi. Hãy thiền định tập trung nhất tâm, hãy nỗ lực kéo dài các quả của thiện nghiệp. ÷

Bây giờ đến lúc đóng cửa lối vào mẫu thai. Lời kệ nói :
Đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước ;
đây là lúc khi mà sự kiên trì và niệm thanh tịnh là rất cần thiết. ÷

Giờ đây thời điểm đã tới. Trước hết lối vào mẫu thai phải nên được đóng kín, có năm phương pháp đóng kín nó, nên con hãy thấu hiểu các phương pháp đó. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), vào lúc này những phóng tưởng về việc đàn ông đàn bà làm tình sẽ hiện ra. Khi con thấy những phóng tưởng đó, con đừng đi vào giữa hai người đó, mà con hãy thiền định về người đàn ông và người đàn bà như là vị thầy và người phối hợp của ngài. Bằng tâm ý con hãy phục lạy sát đất và với sự thiết tha sùng mộ con hãy cúng dường lễ vật và khẩn cầu nghe giáo lý ; ngay khi con tập trung hết sức cao độ vào ý tưởng vừa chỉ dẫn thì lối vào mẫu thai sẽ chắc chắn được đóng lại. ÷

“Nhưng nếu cách này không đóng được lối vào mẫu thai, và con đích thị sắp bước vào mẫu thai thì con hãy thiền định người thầy và vị phối hợp của ngài như là vị yidam của con, hay như là đức Đại Bi Vương cùng với người phối hợp của ngài và bằng tâm ý con hãy cúng dường lễ vật dâng lên chư vị đó. Với sự sùng mộ cao độ con hãy khẩn cầu chư vị đó ban cho con những chứng đắc tâm linh ; điều này sẽ đưa đến việc đóng cửa lối vào mẫu thai. ÷

“Nhưng nếu cách này vẫn không đóng được lối vào mẫu thai, và con đích thị sắp bước vào một mẫu thai thì sau đây là cách hướng dẫn thứ ba để xoay lưng tránh mặt với đam mê và sân hận. Có bốn cách sanh : sanh từ trứng, sanh từ tử cung, sanh tự nhiên (hóa sanh) và sanh từ ẩm ướt. Sanh từ trứng và sanh từ tử cung là tương tợ nhau. Như trên đã nói sẽ có những phóng tưởng về việc giống đực và giống cái giao hợp và nếu con vào mẫu thai do nghiệp lực đam mê và sân hận ở thời điểm này, con sẽ được tái sanh làm con ngựa, con chim, con chó, con người và vân vân, nghĩa là bất cứ con gì có thể được. Nếu con sắp sanh ra làm con đực con sẽ có kinh nghiệm bản thân mình là con đực, con sẽ cảm thấy tức giận mãnh liệt với người cha con sẽ tham muốn ghen tuông với người mẹ. Nếu con sắp sanh ra làm con cái con sẽ có kinh nghiệm như bản thân là con cái, con cảm thấy ganh tức cao độ với người mẹ và thèm muốn mãnh liệt với người cha. Điều này sẽ khiến con vào con đường dẫn tới mẫu thai và con sẽ kinh nghiệm lạc thú tự hữu giữa nơi tinh trùng và cái trứng gặp nhau. Từ trạng thái lạc thú đó con ngất đi và bào thai sẽ phát triển thon tròn cứ thế lớn lên cho đến lúc hình thành một thân thể và ra khỏi thai của mẹ. Con sẽ mở mắt và có thể con trở thành một con chó con ; từ một con người kiếp trước giờ đây con là con chó nên con sẽ chịu đau khổ trong một chuồng chó, hay con trở thành một con lợn con ở trong chuồng lợn hay trong một tổ kiến hay ở trong hang lỗ của con sâu hay thứ con gì khác nữa ; con có thể sanh ra là con bò con dê con cừu vân vân. Ở đây không có sự trở về lại ; con sẽ không ngừng chịu đựng tất cả các kiểu khổ đau xuất phát từ một trạng thái vô cùng vô minh ngu độn. Vòng luân hồi như thế này cứ loanh quanh trong sáu cõi sanh tử, trong địa ngục, trong cõi quỷ đói, và vân vân, con sẽ bị tra tấn hành hạ bởi vô vàn khổ đau không kể hết. Không có gì mãnh liệt và kinh khủng hơn điều này. Than ôi ! Than ôi ! Những ai không nhận được những giáo huấn thiêng liêng của vị thầy sẽ bị rơi xuống hố sâu thăm thẳm của sanh tử theo lối này đây và sẽ chịu khổ đau vĩnh viễn với những nỗi khổ không chịu đựng nổi, cho nên con hãy lắng nghe những lời của ta, con hãy hiểu thấu đáo lời hướng dẫn này trong số những lời chỉ bày của ta. ÷

“Đây này là lời hướng dẫn để đóng kín lối vào mẫu thai bằng cách xoay lưng lại với đam mê và sân hận, con hãy lắng nghe, hãy thấu hiểu. Lời kệ nói : ÷

Đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước ;
đây là lúc sự kiên trì và niệm thanh tịnh là rất cần thiết,
hãy buông bỏ ganh tỵ và hãy thiền định vào vị thầy và người phối hợp của ngài. ÷

Như trên đã nói, con sẽ có những ý tưởng ganh tỵ ; nếu con sắp sanh ra làm con đực con sẽ yêu mến người mẹ và ghét người cha ; và nếu con sắp sanh ra làm con cái con sẽ yêu cha ghét mẹ. Cho nên vào lúc này có một sự chỉ dẫn vi diệu. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), khi đam mê sân hận nổi lên giống như vầy, con hãy thiền định theo cách sau đây : ‘Than ôi ! Tôi là một chúng sanh với nghiệp quá xấu ác đến nỗi từ trước đến giờ tôi đã lang thang như thế này trong sanh tử do bởi tôi bám níu vào dục vọng và sân hận. Bây giờ nếu tôi còn theo đuổi thức tình dục vọng và sân hận giống như vậy nữa, tôi sẽ vĩnh viễn đi lang thang trong sanh tử, và tôi sẽ chìm đắm vào trong sâu thẳm của đại dương đau khổ trong thời gian rất lâu, nên bây giờ tôi sẽ không có thức tình dục vọng hay sân hận nữa. Than ôi ! Giờ đây tôi sẽ không bao giờ cảm thấy dục vọng và sân hận lại lần nữa.’ Bằng sự tập trung tâm của con một cách cao độ và nhất tâm vào ý nghĩ đó, thì chính điều đó sẽ đóng kín lối vào mẫu thai, các tantras nói như vậy. Này thiện nam (tín nữ), đừng để bị phân tán ; hãy tập trung tâm của con một cách nhất tâm. ÷

“Nhưng nếu ngay cả sau khi làm vậy, lối vào mẫu thai vẫn không được đóng lại, và con sắp vào đó, thì sau đó nó sẽ phải được đóng lại bởi lời hướng dẫn về bản chất như huyễn, không thực của mọi sự. Con hãy thiền định theo cách này : ‘Than ôi ! Cha và mẹ, trận bão lớn, cơn gió xoáy, cơn sấm, các phóng tưởng đáng sợ, tất cả những hiện tượng hiện ra nhưng chúng không thật. Tất cả các thể chất đều giả, và không thật. Chúng giống như một ảo ảnh do quáng nắng trưa hè, chúng không thường hằng, chúng không phải là không thay đổi. Như vậy thì ham muốn có ích gì ? Như vậy sợ hãi có ích gì ? Chỉ vì lầm tưởng coi cái không hiện hữu thành ra cái hiện hữu. Tất cả những sự việc này đều là phóng tưởng của tâm con, và bởi vì tự tâm là huyễn và không hiện hữu từ ngay khởi thủy, vậy từ đâu bên ngoài chúng nổi lên giống như thế này ? Trước đây tôi đã không hiểu được theo cách này và do vậy tôi đã tin cái không hiện hữu thành có hiện hữu, đã tin cái không thật thành ra có thật, đã tin cái huyễn thành ra cái thật ; cho nên tôi đã lang thang trong sanh tử rất lâu rồi. Giờ đây, nếu tôi không nhận ra rằng chúng là những thứ huyễn thì tôi vẫn sẽ tiếp tục lang thang trong luân hồi sanh tử lâu hơn nữa và chắc chắn sẽ rơi vào vũng lầy đau khổ. Giờ đây tất cả những thứ đó giống như giấc mộng, giống như những thứ huyễn, giống như những tiếng vang, giống như hoa đốm giữa hư không, giống như quáng nắng trưa hè, giống như ảnh trong gương, giống ảo ảnh thị giác, giống như mặt trăng dưới nước, chúng không thật cho dù trong một chốc lát. Chắc chắn chúng không chân thật, chúng là giả !’ ÷

“Bằng cách tập trung nhất tâm vào điều xác tín này thì niềm tin của con rằng mọi sự là thật sẽ bị tiêu hủy và nếu một người tự đáy lòng đã tin được theo cách như vậy thì sự tin vào cái ngã sẽ mất hiệu lực. Và nếu tự đáy lòng con hiểu thấu đáo sự không chân thật như vậy thì lối vào mẫu thai sẽ chắc chắn bị đóng lại. ÷

“Nhưng nếu ngay cả sau khi làm như vậy mà niềm tin rằng mọi sự là thật vẫn không bị tiêu hủy và lối vào mẫu thai vẫn không bị đóng lại và con sắp sửa đi vào mẫu thai thì có sự hướng dẫn vi diệu sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu sau khi làm như vậy mà lối vào mẫu thai không bị đóng thì giờ đây nó phải được đóng lại bởi phương pháp thứ năm này, đó là cách thiền định vào linh quang ; hãy thiền định theo cách này : ‘Tất cả các thể chất chính là tự tâm của tôi và tâm này là tánh Không, vô sanh vô ngại.’ Khi nghĩ như vậy con hãy để tâm tự nhiên và không bị tan lỗng, tự lưu lại trong bản tánh của chính nó như nước được đổ vào nước, đích thị là chính nó, buông lỏng, rỗng rang, thư giãn. Bằng cách để cho nó an định một cách tự nhiên và buông lỏng, con được bảo đảm là lối vào mẫu thai của bốn cách sanh sẽ chắc chắn bị đóng lại.” ÷

Nhiều cách chỉ dẫn chân thật và vi diệu đã được giảng trên đây để đóng cửa mẫu thai và dù người chết là thượng căn, trung căn hay hạ căn cũng không thể nào không được giải thoát sau khi nghe. Tại sao vậy ? Trước hết, vì tâm thức trong trạng thái bardo có được sự nhận biết siêu phàm về mọi sự của thế gian, nên người chết có thể nghe những gì ta nói ; thứ hai ngay cả khi ông ta bị điếc, mù khi sống, thì giờ đây ông có đủ giác quan lành lặn nên ông ta nghe được hết những gì được nói ra ; thứ ba vì bị ngập chìm trong nỗi sợ triền miên nên giờ đây ông ta đang suy nghĩ một cách chăm chú không phân tán để xem phải làm gì nên ông ta sẽ lắng nghe ta nói những gì ; và thứ bốn vì không có thân làm chỗ nương tựa nên tâm thức sẽ đi thẳng đến chỗ mà sự tập trung thiền định nhất tâm dẫn tới, cho nên rất dễ hướng dẫn. Tâm của ông ta giờ đây sáng suốt gấp hơn chín lần so với lúc còn sống, nên dù rằng ông ta ngu ngốc nhưng nhờ vào nghiệp lực nên lúc này đây tâm của ông ta trở nên sáng suốt đến nỗi tâm đó có thể thiền định về bất cứ điều gì được giảng ; đây là những lý do chủ yếu. Và bởi vì lý lẽ lày mà việc cử hành những nghi lễ cho người chết rất có ích lợi. ÷

Cho nên điều rất quan trọng là phải kiên nhẫn đọc bộ giáo huấn “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này trong suốt chín ngày. Nếu dù ông ta không được giải thoát ở một cách chỉ bày này thì ông ta cũng sẽ đạt giải thoát ở một cách chỉ bày khác. Đó là lý do tại sao không phải chỉ một mà cần nhiều cách chỉ bày. ÷

Mặc dù vậy vẫn có nhiều hạng người đã không quen tích tập thiện hạnh và ngay từ xa xưa, họ đã cực kỳ gian xảo trong những việc làm xấu xa và do ảnh hưởng của nhiều tấm màn vô minh dày đặc mà họ không được giải thoát cho dù đã được chỉ bày những cách thức thiền định nói trên nhiều lần ; nên giờ đây, nếu lối vào mẫu thai đã không đóng được thì sau đây sẽ được giảng cho nghe một sự chỉ bày vi diệu để chọn lối vào mẫu thai. Người nên khẩn cầu chư Phật chư Bồ tát gia hộ và lập đi lập lại lời nguyện quy y,[23]* rồi gọi tên người chết ba lần và đọc những lời sau đây : ÷

“Này thiện nam (tín nữ) (tên), con đã chết, bây giờ hãy lắng nghe ! Mặc dầu con đã được chỉ bày nhiều lần với những lời hướng dẫn ở trên nhưng con vẫn không hiểu được nên giờ đây, nếu lối vào mẫu thai không đóng được thì đã tới lúc con nhận lấy một cái thân. Không phải chỉ có một nhưng có nhiều những chỉ dẫn vi diệu và chân thật để con chọn một lối vào mẫu thai, nên con hãy hiểu thấu đáo và đừng bị phân tán. Hãy lắng nghe thật rõ với sự tập trung cao độ và hãy hiểu thấu đáo. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), ở châu lục mà con sắp sanh ra những dấu hiệu và những nét đặc trưng của nơi đó sắp xuất hiện, nên con hãy nhận ra chúng. Hãy xem xét kỹ nơi con sắp sanh ra và hãy chọn châu lục. ÷

“Nếu con sắp sanh ở châu lục phía đông tức là Đông Thắng Thần Châu (Thân Quý Tộc) con sẽ thấy sẽ thấy những con ngỗng cái ngỗng đực bơi lượn trên một cái hồ. Hãy nghĩ đến việc từ chối đi đến nơi đó. Mặc dầu nơi đó tràn đầy hạnh phúc nhưng không có đạo pháp được giảng dạy, nên còn đừng vào đó. ÷

“Nếu con sắp được sanh ra ở châu lục phía nam gọi là Nam Thiệm Bộ Châu (Đảo Táo và Hoa Hồng) con sẽ thấy những nhà cửa rất đẹp và rất sang trọng. Nếu có thể được con hãy vào nơi đó. ÷

“Nếu con sắp được sanh ra ở châu lục phía tây gọi là Tây Ngưu Hóa Châu (Thọ hưởng những con Bò đáp ứng điều Ước) con sẽ thấy một cái hồ với những con ngựa đực ngựa cái quanh hồ. Con đừng đến đó. Con hãy trở lại đây. Mặc dù nơi đó tràn đầy những điều vui thích tột độ nhưng không có đạo pháp giảng dạy, nên con đừng vào đó. ÷

“Nếu con sắp được sanh ra ở châu lục phía bắc gọi là Bắc Cu Lô Châu (Âm Thanh Khó Chịu) con sẽ thấy một cái hồ với gia súc hoặc cây cối. Con hãy nhận ra những thứ đó chính là dấu hiệu tái sanh và con đừng vào đó. Mặc dầu nơi đó có đời sống trường thọ và nhiều phước đức nhưng không có đạo pháp giảng dạy nên con đừng vào. ÷

“Nếu con sắp sanh làm một Atula (chư thiên ganh tỵ) con sẽ thấy những cánh rừng nhỏ xinh đẹp hay thấy một vật dường như là những bánh xe bằng lửa đang quay tròn. Tuyệt đối đừng vào đó, hãy nghĩ đến sự chống đối lại. ÷

“Nếu con sắp sanh ra làm một thú vật, con sẽ thấy như là đang đi xuyên qua những hang đá đầy sương mù và những hang lỗ dưới đất và các chòi tranh. Con đừng vào đó. ÷

“Nếu con sắp sanh ra làm một quỷ đói, con sẽ thấy những thân cây cụt ngọn và những hình dáng màu đen chỉa đầu nhọn lên, những động và hang cạn và những đụn đất nhỏ màu đen. Nếu đi vào đó con sẽ sanh ra làm quỷ đói và kinh qua đủ mọi khổ đau vì đói và khát, nên tuyệt đối đừng đi đến đó, con hãy nghĩ đến sự chống đối hết sức cương quyết. ÷

“Nếu con sắp sanh ra làm một chúng sanh ở địa ngục, con sẽ nghe những chúng sanh có nghiệp ác hát những bài hát, hoặc con sẽ phải đi vào một cách bất lực, hoặc con sẽ cảm thấy rằng con đã đi vào một vùng đất tối tăm, với những căn nhà có màu đen màu đỏ, những cái hố đen và những con đường màu đen. Nếu con vào đó con sẽ vào địa ngục và kinh qua sự đau khổ không chịu đựng nổi vì sức nóng và lạnh mà từ đó con sẽ không bao giờ thoát ra được. Nên con đừng đi vào những chỗ đó, tuyệt đối không vào, hãy hết sức cẩn thận. Lời kệ nói : ‘Hãy đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước’, giờ đây câu kệ này là rất cần thiết. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), cho dù con không muốn đi, nhưng bản thân không có quyền theo ý mình, con bất lực bị bắt phải đi. Phía sau lưng những người có nghiệp thù oán với con sẽ rượt đuổi con, phía trước mặt những kẻ sát nhân và những kẻ báo thù sẽ kéo lê con đi ; bóng tối, bão biển, giông tố dữ dội, âm thanh gầm thét, tuyết và mưa, bão mưa đá, bão tuyết sẽ thổi cuồn cuộn xung quanh con, và con sẽ chạy trốn những cảnh tượng đó. Khi chạy trốn, con cố tìm nơi ẩn nấp con sẽ tìm được sự an toàn trong những nhà cửa sang trọng mô tả ở trên hay là những chỗ núp trong hang trong lỗ dưới đất giữa cánh rừng hay là trong những khoang lỗ tròn trong các hoa sen và vân vân. Khi được ẩn nấp ở đó, con sợ phải ra ngoài, và con sẽ nghĩ rằng, ‘Giờ đây tôi không thể ra khỏi nơi này’, và vì nỗi sợ phải rời nơi ẩn nấp, con sẽ trở nên ưa thích nơi đó. Con sợ phải đối mặt với những cảnh tượng quá sức kinh hãi của bardo nếu con phải ra ngoài, con cảm thấy sợ quá sức những cảnh đó ; và do đó con trốn ở trong nơi ẩn nấp và con nhận lấy một cái thân, dù nó có tồi tệ, và như vậy con sẽ kinh qua đủ mọi khổ đau. Đó là một dấu hiệu cho thấy rằng ma quỷ và các lực độc ác bây giờ đang cản trở con ; ngay lúc này có một sự hướng dẫn vi diệu, nên con hãy lắng nghe và thấu hiểu. ÷

“Ở vào thời điểm đầy những cảnh tượng kinh hoàng lúc này khi mà con đang bất lực bị những kẻ báo thù rượt đuổi, con nên lập tức tập trung quán tưởng vị Heruka Tối thượng Thiêng Liêng (The Blessed Supeme Heruka) hay vị Hayagriva hay vị Vajrapani, hay vị yidam của con nếu có, con quán tưởng một trong chư vị đó, có một thân mình khổng lồ, tay chân dày đặc, đang đứng trong tư thế một hung thần khủng khiếp, vị thần đó đập tan các lực ác độc thành ra tro bụi. Nhờ lòng từ bi và sự ban phước của vị đó mà con rời bỏ được kẻ báo thù, con sẽ tự mình có khả năng chọn lựa lối vào mẫu thai. Đây là bí quyết vi diệu chân thật của lời hướng dẫn, con hãy hiểu nó thấu đáo. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), các vị trời thiền định (the gods of meditation) và vân vân, được sanh ra thông qua năng lực đại định (power of samadhi). Một hạng rất đông các linh hồn độc ác như là quỷ đói, vân vân, đã thay đổi thái độ trong khi ở trong trạng thái bardo, sau đó họ có khả năng xuất hiện trong những tướng huyễn khác nhau của ma quỷ đói và tự chuyển hóa ra thành ra thân tinh thần đó. Các quỷ đói ở tận đáy đại dương và các quỷ đói bay xuyên qua không gian và tất cả tám mươi ngàn các loại quyền năng bất thiện, vân vân, đã nhận lấy thân tinh thần đó bằng cách thay đổi thái độ. Vào lúc này, điều tốt nhất là thiền định Đại Ấn tánh Không nhưng con không thể làm thế được thì con hãy tham dự vào trò chơi phô diễn của huyễn. Nhưng nếu con cũng không thể làm như thế được nữa thì ít nhất cũng đừng ưa thích cái gì cả, con chỉ việc thiền định vào vị yidam, tức là đức Đại Bi Vương và con sẽ trở thành một báo thân Phật trong trạng thái bardo. ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu con phải vào mẫu thai bằng cách này thông qua nghiệp lực, thì giờ đây, lời hướng dẫn để chọn lựa lối vào một mẫu thai sẽ được giảng dạy. Con hãy nghe đây ! Con đừng đi vào khi bất cứ lối vào mẫu thai nào hiện ra. Nếu những kẻ có thù oán trước kia đi đến, thì con hãy thiền định ngài Hayagriva. Bởi vì giờ đây con có được một thức siêu nhiên rất nhạy, nên con sẽ biết được tất cả những nơi chốn luân phiên hiện ra, con hãy biết chọn nơi thích hợp. Ở đây có hai hướng dẫn hoặc siêu sanh vào một cõi Phật thanh tịnh hoặc chọn một lối vào mẫu thai ở cõi sanh tử bất tịnh, cho nên hãy hành động theo hướng dẫn này : ÷

“Siêu sanh vào cõi Tịnh Độ nơi của những khả năng thanh tịnh, được hướng dẫn như thế này : ‘Thật buồn thay tôi vẫn ở lại trong vũng lầy sanh tử trong vô lượng kiếp vô thủy vô chung và trong khi không biết bao nhiêu chúng sanh khác đã đạt quả vị Phật thì tôi vẫn không được giải thoát. Từ giờ phút này trở đi tôi cảm thấy chán ghét cảnh luân hồi sanh tử này, tôi khiếp sợ nó, tôi quá mệt mỏi chán chường với nó rồi. Đây đã tới lúc tôi phải thoát khỏi sanh tử, cho nên tôi phải có được sự hóa sanh trong một hoa sen dưới chân đức Phật A Di Đà trong cõi cực lạc Tây phương.’ Với ý nghĩ như vậy, con hãy tập trung tâm con cao độ nghĩ đến cõi Cực Lạc Tây Phương, cốt tử là có được nỗ lực này. Hoặc nếu con chủ động được sự tập trung nhất tâm cao độ, không tán loạn, hướng về bất cứ cõi nào con mong ước như cõi Thanh Tịnh, cõi Toàn Lạc hay cõi Được Thỏa Mãn Sâu Sắc, hay cõi Lá Liễu hay cõi Núi Cây Cọ Dừa hay cõi Lâu Đài Ánh Sáng Hoa Sen trong vùng Uryan thì con lập tức được sanh về cõi đó. Hay con mong muốn đi đến nơi ngự của Ngài Di Lặc trong cõi Phúc Lạc thì con hãy tập trung vào ý nghĩ như sau : ‘Ngay lúc này đây trong trạng thái bardo đã tới lúc để tôi đi tới nơi ngự của Ngài Pháp Vương Di Lặc trong cõi Phúc Lạc, nên tôi đi đây’, và con sẽ được hóa sanh trong tim của một hoa sen trong nơi ngự của Ngài Di Lặc. ÷

“Ngược lại, nếu con không thể làm như vậy và mong muốn đi vào mẫu thai hay con thấy rằng con phải vào mẫu thai thì sau đây là lời hướng dẫn để con chọn lối vào mẫu thai ở cõi sanh tử bất tịnh, con hãy lắng nghe. Như trên, với thức siêu nhiên, con hãy nhìn vào cõi con sắp vào đó, và con hãy vào nơi nào có pháp Phật được giảng dạy. ÷

“Nếu con sắp phải tự nhiên sanh vào một đống phân bẩn thỉu con sẽ nhận thấy đống phân hôi hám đó lại bốc mùi thơm ngọït và con sẽ cảm thấy ưa thích nó như vậy con sẽ sanh vào đống phân ; cho nên dù cho bất cứ cái gì hiện ra con đừng tin tưởng nó, con hãy chấm dứt các biểu hiện ưa thích hay căm ghét và chọn một lối vào mẫu thai. ÷

“Lại nữa, điều rất quan trọng là tập trung suy nghĩ như thế này : ‘Tôi sẽ sanh ra làm chúa tể vũ trụ để làm điều tốt lành cho tất cả chúng sanh hữu tình, hãy làm một vị Bà la môn như một cây sala đại thọ hay làm con của một bậc thành tựu hay sanh vào trong một gia đình có dòng truyền thừa Phật pháp thuần khiết hay trong một gia đình có cha và mẹ có đức tin và nhận lấy một thân với nhiều công đức để có thể làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh hữu tình, tôi sẽ làm thiện hạnh.’ Khi tập trung vào ý nghĩ như vậy con sẽ vào mẫu thai đó. Vào lúc này con nên tôn vinh mẫu thai mà con sắp sửa vào như là một lâu đài của chư thiên và con hãy khẩn cầu chư Phật chư Bồ tát mười phương, các vị hộ mệnh gia hộ cho con, đặc biệt là Đại Bi Vương và con đi vào mẫu thai với lòng khao khát được trao truyền giáo pháp. ÷

“Dưới ảnh hưởng của nghiệp rất có thể con phạm sai lầm khi con chọn lối vào mẫu thai theo cách này bởi vì con sẽ lầm tưởng một lối vào mẫu thai tốt thành xấu và ngược lại, cho nên lại một lần nữa giờ đây điểm cốt yếu của lời hướng dẫn rất quan trọng, con phải biết bằng cách làm như thế này : dù cho một lối vào mẫu thai hiện ra là tốt nhưng con đừng tin nó như vậy và dù cho nó hiện ra là xấu con cũng đừng cảm thấy không ưa nó. Bí quyết chân thật, vi diệu, rốt ráo là nhập vào trong trạng thái bình đẳng vô thượng (đại tự tại) trong đó không có tốt hay xấu, chấp nhận hay chối bỏ, ham thích hay căm ghét.” ÷

Nhưng ngoại trừ một số ít người có kinh nghiệm trong việc này còn thì đa số rất khó tránh được bệnh có những xu hướng mê lầm xấu xa, không thể dứt bỏ được sự ham thích hay ganh ghét theo cách đó, và sẽ nhập vào mẫu thai của những kẻ tội lỗi độc ác, căn cơ thấp kém nhất tồi tệ nhất như súc vật, cho nên để ngăn ngừa người chết làm như vậy, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời như sau : ÷

“Này thiện nam (tín nữ), nếu con không biết cách chọn lối vào mẫu thai và không thể dứt bỏ sự ham thích và ganh ghét thì khi bất cứ kinh nghiệm nào đã nói trên nổi lên, con hãy khấn danh xưng Tam Bảo và nguyện quy y vào đấy. Con hãy khẩn cầu Đại Bi Vương. Hãy tiếp tục làm như vậy và giữ lòng tin. Đừng quyến luyến bịn rịn thương nhớ họ hàng bà con bạn bè, con cái mà giờ đây con đã để lại phía sau ; họ không thể nào giúp đỡ con được. Giờ đây con hãy đi vào ánh sáng xanh da trời của cõi người hay ánh sáng trắng của cõi trời, con hãy đi vào các lâu đài châu báu và các vườn địa đàng.” ÷

Lời hướng dẫn này cần được lập lại bảy lần. Rồi thì người hãy khẩn cầu chư Phật và chư Bồ tát và tụng bảy lần các bài : “Cầu Nguyện Trong Bardo Che Chở Khỏi Sợ hãi”, bài kệ : “Những Câu Kệ Chánh về Bardo” và “Giải Thoát Khỏi Lối Đi Nguy Hiểm của Bardo”. Rồi, người nên đọc “Giải Thoát Thông Qua Việc Giúp Giải Thoát Các Uẩn Một Cách Tự Nhiên” và bài “Kệ Tu tập Hàng Ngày Giúp Giải Thoát Các Xu Hướng Mê Lầm Một Cách Tự Nhiên” ; người nên đọc một cách rõ ràng rành rọt. ÷

Bằng việc làm đúng, các hành giả có huệ quán cao nhất (yogins of highest insight) sẽ thực hiện sự phóng xuất tâm thức ngay trong giai đoạn bardo vào thời điểm đối diện cái chết, họ không phải đi lang thang trong trạng thái bardo vì họ bỏ qua trạng thái bardo và đạt tới giải thoát. Thấp hơn các hành giả này là một số ít người đã có kinh nghiệm và nhận ra được ‘linh quang của pháp tánh sau giai đoạn bardo’ vào thời điểm đối diện cái chết và họ bỏ qua bardo và trở nên một vị Phật. Từ đây trở xuống, những người sẽ được giải thoát tương ưng với nghiệp quả của họ vào hoặc lúc này hoặc lúc khác khi các phóng tưởng về hình ảnh thần bình yên và thần xung nộ hiện ra trong giai đoạn bardo pháp tánh trong suốt các tuần lễ tiếp theo. Bởi vì sẽ có nhiều giai đoạn nên họ sẽ nhận ra giai đoạn nào thích hợp và đạt tới giải thoát. ÷

Nhưng với những ai mà quả của thiện nghiệp yếu kém, bị nhiều bức màn vô minh che đậy, đã làm nhiều ác nghiệp, thì họ phải lang thang xuống dưới tới giai đoạn bardo thác sanh ; nhưng bởi vì có nhiều cách chỉ bày khai thị giống như các bậc của một cái thang, họ sẽ nhận ra ở thời điểm này hay ở thời điểm khác và sẽ được giải thoát. Nhưng những ai có quả thiện nghiệp quá yếu kém sẽ không nhận ra trong suốt các giai đoạn ở trên và họ bị khuất phục bởi nỗi sợ hãi thì có một loạt các chỉ dẫn liên tục luân phiên về việc đóng cửa lối vào mẫu thai và việc chọn cửa vào mẫu thai, nên họ sẽ nhận ra ở lúc này hay lúc khác và bằng việc đặt lòng tin trọn vẹn vào đối tượng thiền định, họ sẽ đạt quả công đức vô lượng, tối thượng. ÷

Ngay cả những ai ở mức thấp nhất trong nhóm hạ căn, thấp ngang bằng súc sanh, cũng được mang lên lại từ nơi các cõi thấp nhờ vào công đức quy y (vào Tam Bảo), họ sẽ được thân người quý báu, không bị tật nguyền, với tất cả những cơ duyên tự do và tốt đẹp và trong đời tái sanh họ sẽ được gặp một minh sư, một thiện trí thức, họ sẽ được chỉ dẫn giáo huấn và họ sẽ được giải thoát. ÷

Nếu người nào nhận được bộ giáo huấn khai thị này suốt trong giai đoạn bardo thác sanh thì quả thiện nghiệp sẽ được kéo dài lâu hơn cũng giống như đưa một cái ống mới lót vào một ống nước bị bể. Dù là ai có phạm tội trọng cũng sẽ không thể không được giải thoát khi nghe luận giảng này. Tại sao như vậy ? Bởi vì trong suốt giai đoạn bardo, sự kêu gọi câu thúc đầy lòng từ bi của tất cả chư Phật và chư thần bình yên và xung nộ và sự lôi kéo của các năng lực bất thiện các quỷ dữ đều xảy ra cùng nhau nên bằng việc nghe được luận giảng này vào lúc đó thì thái độ của họ sẽ được tác động bởi vì thân tinh thần không có thân bằng thịt bằng máu. Tuy dù họ đã đi lang thang xa đến đâu trong trạng thái bardo nhưng với thức siêu nhiên rất nhạy của nghiệp họ sẽ thấy và nghe được và họ sẽ đến. Đây là điều cực kỳ lợi lạc bởi vì họ sẽ hiểu ngay và tâm họ bị tác động tức thì. Cũng giống như cái máy bắn đá hay giống như một thân cây rất to, một trăm người khiêng không nổi, nhưng nếu bỏ xuống nước thì nó rất dễ di chuyển ngay tức khắc ; đấy cũng giống như điều khiển con ngựa bằng dây cương. ÷

Cho nên, người hãy nên tiếp cận với tất cả những ai bị chết, nếu thi thể có ở đó, một người nên đọc tập luận nhắc nhở này, lập đi lập lại nhiều lần cho tới khi máu và đờm dãi từ mũi chảy ra. Đồng thời thi thể cần được để yên đừng di động. Cần chú ý những việc như sau : đừng giết súc vật để cúng tế người chết, bà con bạn bè không nên than khóc bên cạnh thi thể gây ồn ào, có thể khóc ở nơi khác ; gia đình bà con bất kỳ ai nên làm nhiều phước đức càng tốt cho người chết. ÷

Ngoài việc đọc bộ giáo huấn “Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này cần nên đọc thêm theo sau bằng một số giáo huấn khác nữa. Nên đọc tập luận này liên tục, thuộc lòng ý nghĩa mỗi chữ mỗi câu, và khi cái chết chắc chắn sẽ xảy ra, các dấu hiệu của cái chết đã được nhận thấy và nếu điều kiện cho phép, người sắp chết nên tự mình đọc lớn và tập trung tâm trí vào đó, nhưng nếu không thể làm như vậy thì một sư huynh nên đọc bộ này bởi vì khi nghe những lời nhắc nhở này người sắp chết sẽ được giải thoát, không thể nghi ngờ. Bộ giáo huấn này không cần tu tập, đây là sự chỉ bày sâu sắc giải thoát qua việc được nghe, được thấy, được đọc. Bộ giáo huấn này rất vi diệu, có thể dẫn dắt những kẻ đại ác đi vào con đường thâm mật. Nếu khi chúng ta bị bầy chó dữ rượt đuổi mà chúng ta vẫn còn nhớ được từng lời từng nghĩa của bộ này thì chúng ta sẽ được giải thoát ngay trong giai đoạn bardo của thời điểm đối diện cái chết. Ngay cả chư Phật trong ba đời quá khứ hiện tại vị lai muốn tìm kiếm cũng không thể tìm được một giáo lý tốt hơn bộ giáo huấn này. ÷
 
 

“Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” là bộ giáo huấn 
về bardo, một tinh hoa vi diệu thâm mật – giáo lý 
giải thoát cho con người. Bản văn quý bảo này 
được bậc thành tựu giả Karma Lingpa 
tìm thấy trong núi Gampodar. 
Cầu mong bộ giáo huấn này 
làm lợi lạc cho đạo pháp 
và cho tất cả chúng 
sanh hữu tình. ÷
sarvamangalam ÷

 Xem tiếp

Các thông tin cùng loại này
» BÀN TAY ÁNH SÁNG (2017-11-18 09:53:53)
» Phạm Võng Kinh Tinh Giải T1 (2017-11-13 16:56:46)
» Ngũ giới Đạo thành người (2017-04-06 05:02:34)
» Hành trình TOTHA 2016 (2017-04-06 04:30:03)
» Hành trình TOTHA 2015 (2017-11-17 12:18:16)
» Ngũ giới theo góc nhìn khoa học Tập 1 (2018-03-18 11:59:38)
» Hành trình TOTHA 2014 (2017-11-17 16:32:27)
» Kỷ yếu cùng nhau tu học 2013 (2013-09-19 15:19:17)
» Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời (2011-10-16 17:06:12)
» Nhà tiên tri Edgar Cayce (2011-10-16 16:46:10)
» LƯỢC SỬ THỜI GIAN (2017-11-22 11:55:40)
» ĐẠO CỦA VẬT LÝ (2011-01-15 19:50:17)
» ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT (2011-01-15 01:01:59)
» Hành Trình Về Phương Đông (2011-01-14 16:40:56)
» Trở Về Từ Cõi Sáng (2011-01-13 21:57:51)
» TỬ THƯ TÂY TẠNG (2011-01-13 21:06:23)
» Du hành qua các vùng tâm thức (2010-12-31 00:56:18)
» Kỷ yếu Hội thảo Khoa học thực nghiệm Năng lượng Tâm Thức 18/12/2010 (2010-12-30 17:04:04)
» SÁCH THAM KHẢO (2010-12-30 20:29:22)
» Phim tư liệu (2017-04-06 04:50:59)
  1  
 

CÔNG TY KHOA HỌC NĂNG LƯỢNG TÂM THỨC TOTHA
245 Trịnh Đình Trọng, P.Hòa Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM, VN - ĐT0909777929 - 0908883380 - 0909631630 - 0914359159 - Email:   phapluantotha@gmail.com

Copright 2009 www.totha.vn,
All rights reserved

Lượt truy cập: 18004335
Đang online : 135