CHUYÊN MỤC
ĐỒNG TÂM
LỊCH ÂM DƯƠNG
LIÊN KẾT WEBSITE
Thông tin khoa học cơ bản » THƯ VIỆN TOTHA  » Chi tiết
 
ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT
Đề tài đời sống sau khi chết là một đề tài rất thú vị đối với tất cả chúng ta, chẳng những vì bản thân chúng ta chắc chắn là một ngày kia cũng phải chết, mà còn hơn thế nữa...

C. W. Leadbeater

ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT

Dịch giả : Tâm Như

Lời mở đầu

Nguyên tác : THE LIFE AFTER DEATH

 

Vài hàng về tác giả.
Charles Webster  Leadbeater  sinh năm 1847 – 1934, là một giáo sĩ thuộc Giáo hội Anh quốc cho tới khi ông gia nhập Hội Thông Thiên Học vào năm 1883. 
Ông đã sống một số năm ở Tích Lan làm việc để phục hưng Phật giáo. Năm 1893, ông bắt đầu việc khảo cứu bằng thần nhãn, thỉnh thoảng có hợp tác với bà Annie Besant là Hội trưởng thứ nhì của Hội Thông Thiên Học. 
Những tác phẩm của ông hé lộ khía cạnh ẩn tàng của các sự vật và đời sống bên kia cửa tử. Những bài thuyết trình của ông trên khắp thế giới đưa ra một quan niệm mới cho cả ngàn người chiêm nghiệm. 
Chính ông đã phát hiện ra tiềm năng vĩ đại của J. Krishnamurti, và đã giáo dục Krishnamurti nhằm vào công việc tương lai của đứa trẻ nầy.

 

Chương 1

LIỆU CÓ BẤT KỲ KIẾN THỨC CHẮC CHẮN NÀO KHÔNG ?

 

Đề tài đời sống sau khi chết là một đề tài rất thú vị đối với tất cả chúng ta, chẳng những vì bản thân chúng ta chắc chắn là một ngày kia cũng phải chết, mà còn hơn thế nữa vì trong số chúng ta có lẽ ngoại trừ những người rất trẻ thì hầu như chẳng có ai mà không bị thần chết cướp mất (theo như ta gọi điều này) một người nào đó rất thân cận với chúng ta. Như vậy, nếu có bất kỳ thông tin khả dụng nào liên quan tới đời sống sau khi chết thì tự nhiên là chúng ta rất nôn nóng muốn có được thông tin đó. 
Nhưng tư tưởng đầu tiên xuất hiện trong tâm trí của kẻ nào thấy một đề tài như thế thường là thắc mắc: “Liệu ta có thể biết chắc chắn điều gì về đời sống sau khi chết hay chăng ? Tất cả chúng ta đều có được nhiều lý thuyết khác nhau trưng dẫn trước mắt mình về đề tài này do đủ thứ đoàn thể tôn giáo đưa ra, thế nhưng ngay cả những tín đồ sùng đạo nhất của các giáo phái này dường như cũng khó lòng mà tin được giáo huấn đó về vấn đề này, vì họ vẫn còn nói tới sự chết như là “vị vua kinh hoàng” và dường như coi trọn cả vấn đề này đều bị bao quanh bởi sự bí mật và khiếp sợ. Họ có thể dùng thuật ngữ “yên ngủ nơi Chúa Jesus”, nhưng họ vẫn còn dùng bộ quần áo đen và chùm lông vũ, cờ tang khủng khiếp và giấy mỏng viết thư ghê tởm có bờ mép màu đen, họ vẫn còn bao quanh sự chết với mọi chuyện vẽ vời đầy thù nghịch, và với đủ mọi thứ được trù tính để khiến cho nó dường như là u uẩn và khủng khiếp. Về vấn đề này chúng ta có một di sản tồi tệ; chúng ta đã kế thừa những sự khủng khiếp tang chế này từ cha ông của mình, và thế là chúng ta đã làm quen với nó, tuyệt nhiên không thấy nó thật là phi lý và quái gở. Về phương diện này, cổ nhân còn khôn ngoan hơn chúng ta, vì họ không gắn liền mọi cơn ác mộng u ám này với cái chết của thể xác – có lẽ một phần vì họ có một phương pháp hợp lý hơn nhiều để xử trí xác chết – một phương pháp chẳng những vô cùng tốt hơn cho người chết và lành mạnh hơn cho người sống mà còn không có những hàm ý rùng rợn liên quan tới sự thối rữa từ từ. Họ biết nhiều hơn chúng ta về sự chết ngay cả từ thời đó, và vì họ biết nhiều hơn cho nên họ than khóc ít hơn.
Điều đầu tiên mà chúng ta phải nhận thức về sự chết đó là: đây là một sự cố hoàn toàn tự nhiên trong quá trình sinh hoạt của ta. Điều này ắt phải là hiển nhiên ngay tức khắc đối với chúng ta, vì nếu chúng ta có tin vào một đấng Thượng Đế là một bậc Từ phụ, thì chúng ta nên biết rằng một số phận vốn xảy ra cho tất cả mọi người như là sự chết ắt không thể là điều xấu xa, và cho dù chúng ta ở trên thế giới này hoặc đã chuyển sang thế giới bên kia, thì chúng ta cũng đều an toàn trong vòng tay của Ngài. Chỉ nội nhận xét này không thôi ắt cũng đã cho ta thấy rằng sự chết không phải là một điều gì đó dễ sợ, mà chỉ là một bước cần thiết trong cuộc tiến hóa của ta. Thông Thiên Học cũng chẳng cần đến với các nước theo Ki Tô giáo và giảng dạy rằng sự chết là một người bạn chứ không phải một kẻ thù. Việc đó cũng không cần thiết trừ phi Ki Tô giáo đã quên hết phần lớn truyền thống tốt đẹp của riêng mình. Nó đã đạt đến mức coi ngôi mộ là “dòng suối mà không một kẻ lữ khách nào quay về từ đó”, và việc băng qua dòng suối là một bước nhảy vào đêm tối và một cõi hư vô dễ sợ nào đó mà chưa ai biết tới. Về vấn đề này cũng như nhiều vấn đề khác, Thông Thiên Học có một phúc âm dành cho thế giới phương Tây; nó phải loan báo rằng vượt ngoài ngôi mộ không hề có một vực sâu u ám mà ta không vượt qua nỗi, thay vào đó chỉ có một thế giới ánh sáng và sự sống mà ta có thể biết được một cách trọn vẹn và chính xác giống như những đường phố ở đô thị của chính chúng ta. Chúng ta đã tự tạo ra cho mình sự u buồn và khủng khiếp giống như những đứa trẻ tự nhác mình bằng những câu chuyện ma, và chúng ta chỉ cần nghiên cứu những sự kiện trong trường hợp này thì mọi đám mây nhân tạo đó sẽ biến đi ngay tức khắc. Sự chết không phải là một ông vua khủng bố nơi chốn âm ty, không phải là một bộ xương cầm lưỡi hái cắt đứt sợi chỉ sự sống, mà đúng hơn là một vị thiên thần cầm một chìa khóa vàng để mở cửa cho chúng ta bước vào một cuộc sống viên mãn hơn và cao siêu hơn cuộc sống của ta.
Nhưng tự nhiên là người ta sẽ hỏi: “Điều này thật là đẹp đẽ và thi vị, nhưng làm sao chúng ta có thể biết chắc được nó quả thực là như thế ?” Bạn có thể biết nó theo nhiều cách khác nhau; có nhiều bằng chứng sẵn có để trao cho bất kỳ người nào mất công thu thập bằng chứng. Phát biểu của Shakespeare quả thật là đáng chú ý khi chúng ta xét thấy rằng ngay từ buổi bình minh của lịch sử và nơi mọi xứ sở mà ta chẳng biết gì, các khách lữ hành luôn luôn đã từ bên kia ngôi mộ trở về và hiện hình ra với đồng loại của mình. Có nhiều bằng chứng về sự hiện hình như thế (người ta gọi chúng như vậy). Có một lúc việc chế nhạo tất cả những câu chuyện đó mang tính cách thời thượng, song giờ đây không còn như vậy nữa vì các nhà khoa học như ngài William Crookes (người khám phá ra kim loại Thallium và phát mình ra bức xạ kế Crookes) cùng với ngài Oliver Lodge (nhà khoa học vĩ đại) và những nhân vật công quyền lỗi lạc như ông Balfour, cố Thủ tướng Anh, đều đã gia nhập và hoạt động tích cực trong một Hiệp hội được tạo lập để khảo cứu về những hiện tượng như thế. Ta hãy đọc những phúc trình công tác của Hội Khảo cứu Tâm linh thì ắt thấy được một điều gì đó làm chứng cho việc người chết quả thực có trở về. Ta hãy đọc những quyển sách như Chuyện Ma Có Thực của ông Stead hoặc Kẻ Ẩn Mình của Camille Flammarion, thì ắt thấy rằng có nhiều bài tường thuật về những sự hiện hình ra – không phải cách đây hàng thế kỷ ở một xứ xa xăm nào đó, mà là ở đây và ngay bây giờ trong đám chúng ta – cho những người vẫn còn sống; ta có thể thẩm vấn những người này và họ có thể làm chứng cho thực tại trong kinh nghiệm của mình.
Một đường lối khác tìm bằng chứng về đời sống sau khi chết là việc nghiên cứu thần linh học hiện đại. Tôi biết rằng có nhiều người nghĩ là chẳng có chi để phát hiện theo đường lối này ngoại trừ sự gian lận và lừa đảo; nhưng bản thân tôi có thể làm chứng cá nhân rằng không phải như thế đâu. Trong một vài trường hợp có thể có – thậm chí đã có – sự gian lận và lừa đảo; tuy nhiên tôi xin mạnh dạn khẳng định rằng đằng sau điều này có những sự thật lớn lao vốn có thể phát hiện được do bất cứ người nào sẵn lòng dành trọn sự kiên nhẫn và thời gian cần thiết để phát lộ chúng. Lại nữa, ở đây ta có một kho tài liệu lớn lao để mà nghiên cứu hoặc nếu người nào thích thì bản thân y có thể khảo cứu trực tiếp giống như chính tôi vậy. Nhiều người có thể không sẵn lòng mất công dành nhiều thời gian đến như thế; tốt thôi, đó là chuyện của họ. Nhưng nếu họ không chịu khảo sát thì họ không có quyền chế nhạo những kẻ nào đã chứng kiến, và do đó biết rằng những sự việc này là chân thực.
Một đường lối thứ ba để tìm bằng chứng mà người ta rất khuyến khích tán thành đối với kẻ nghiên cứu Thông Thiên Học, đó là việc trực tiếp khảo cứu. Mọi người đều có bên trong bản thân những năng lực tiềm tàng, những giác quan chưa phát triển, nhờ vào đó ta có thể trực tiếp nhận biết được thế giới vô hình, và bất cứ kẻ nào chịu khó triển khai những quyền năng này, thì trọn cả thế giới bên kia cửa tử sẽ mở rộng ra như ánh sáng thanh thiên bạch nhật. Khá nhiều người Thông Thiên Học đã phát triển được những giác quan nội tại này và tôi muốn nêu ra trước mắt bạn những bằng chứng thu thập được như thế. Tôi thừa biết rằng đây là một lời rêu rao đáng chú ý, một lời rêu rao mà bất kỳ giáo sĩ nào, bất kỳ nhà thờ nào cũng chẳng dám nêu ra khi y trình bày phiên bản của mình về những trạng thái sau khi chết. Y ắt bảo rằng: “Giáo hội dạy như thế” hoặc “Thánh kinh nói như thế”, nhưng y chẳng bao giờ nói rằng: “Khi tôi nói với bạn thì tôi đã nhìn thấy chuyện đó và biết rằng nó là đúng sự thật”. Nhưng trong Thông Thiên Học, chúng tôi có thể nói hoàn toàn dứt khoát với bạn rằng cá nhân trong nhiều người chúng tôi biết rõ điều mà mình nói, vì chúng tôi đang bàn tới một loạt nhất định sự kiện mà chúng tôi đã khảo cứu, và đến lượt bản thân bạn cũng có thể khảo cứu. Chúng tôi trình bày với bạn điều mà chúng tôi biết, thế nhưng chúng tôi xin nói với bạn rằng: “Nếu bạn không tán thành điều này là cực kỳ có lý thì bạn đừng bằng lòng với những lời quả quyết của chúng tôi; bản thân bạn hãy khào sát những sự việc này rốt ráo đến mức tối đa, nhiên hậu bạn mới ở vào vị thế nói với những người khác một cách đầy thẩm quyền giống như chúng tôi”. Nhưng đâu là những sự kiện mà những cuộc khảo cứu đó đã tiết lộ cho chúng ta ?

 

Chương 2

NHỮNG SỰ KIỆN CHÂN THỰC

 

Tình trạng những sự việc thật sự tồn tại tỏ ra hợp lý hơn nhiều so với hầu hết các thuyết hiện hành. Người ta không phát hiện thấy rằng có bất cứ sự thay đổi đột ngột nào diễn ra nơi con người vào lúc y chết, hoặc y biến đi tới một cõi trời nào đó xa tít mù vượt khỏi các vì sao. Ngược lại, con người sau khi chết vẫn giống y hệt như trước khi chết: cũng như vậy về trí năng, về những phẩm tính và quyền năng; và tình huống mà y thấy mình ở trong đó chính là tình huống mà những tư tưởng và dục vọng của riêng mình đã tạo ra cho mình rồi. Không có sự thưởng phạt nào từ bên ngoài, mà chỉ có kết quả thực sự của điều mà chính con người đã tạo ra, đã nói năng và suy nghĩ trong khi còn ở đây trên trần thế. Thật vậy, trong khi sống ở cõi trần con người đã dọn giường và sau đó y phải nằm lên trên đó. Đây là sự kiện đầu tiên nổi bật nhất: ở đây chúng ta không hề có một sinh hoạt mới mẻ kỳ lạ mà chỉ là một sự nối tiếp sinh hoạt hiện nay. Chúng ta không tách rời khỏi người chết vì lúc nào họ cũng ở đây, xung quanh chúng ta. Sự chia cách duy nhất đó chính là sự hạn chế của ý thức chúng ta sao cho chúng ta đã không đánh mất những người thân thương của mình mà chỉ mất đi khả năng thấy được họ thôi. Chúng ta hoàn toàn có thể nâng cao tâm thức lên sao cho ta có thể thấy được họ và nói chuyện với họ giống như trước kia; tất cả chúng ta đều thường xuyên làm như thế mặc dù chúng ta hiếm khi nhớ được trọn vẹn điều đó. Một người có thể học cách tập trung ý thức vào thể vía trong khi thể xác của y vẫn còn thức tỉnh, nhưng điều đó cần có sự phát triển đặc biệt, và trong trường hợp của kẻ phàm phu thì điều này ắt phải mất nhiều thời giờ. Nhưng trong khi thể xác đang yên ngủ, thì mọi người đều sử dụng thể vía đến một chừng mực nào đó, và bằng cách này hằng ngày chúng ta đã gần gũi với những người bạn đã quá cố của mình. Đôi khi chúng ta cũng nhớ lại được phần nào việc gặp gỡ họ, lúc bấy giờ ta bảo rằng mình nằm mơ thấy họ; thường ra thì chúng ta không nhớ tới những sự gặp gỡ đó và vẫn không biết rằng những sự gặp gỡ đó đã xảy ra. Thế nhưng có một sự kiện dứt khoát là những mối ràng buộc tình cảm vẫn còn mạnh mẽ như thuở nào, và như vậy lúc mà con người được giải thoát khỏi những xiềng xích trong xác phàm của mình thì tự nhiên là lại được đoàn tụ với những người mà mình yêu mến. Thật vậy, điều đó chỉ có một sự thay đổi duy nhất là y sinh hoạt ban đêm với họ thay vì sinh hoạt vào ban ngày, và y có ý thức về họ trên cõi trung giới thay vì trên cõi trần.
Việc chuyển giao trí nhớ từ cõi trung giới xuống cõi hồng trần là một chuyện khác mà ta cần phải xem xét hoàn toàn riêng biệt, nó tuyệt nhiên không ảnh hưởng tới ý thức của ta trên cõi đó cũng như khả năng của ta hoạt động một cách hoàn toàn thoải mái và tự do trên cõi này. Cho dù bạn có nhớ hay chăng, thì họ vẫn còn sống cuộc đời của mình gần kề bạn và sự khác biệt duy nhất là họ đã cởi bỏ cái bộ áo bằng xác thịt mà bạn gọi là thể xác. Điều này không làm cho bạn thay đổi chút nào, cũng giống như nó không làm cho nhân cách của bạn thay đổi khi bạn cởi chiếc áo khoác ngoài ra. Thật ra bạn hơi được tự do hơn vì bạn ít phải mang theo một gánh nặng, và trường hợp của họ cũng giống y hệt như thế. Những đam mê, tình cảm, xúc động và trí năng của con người tuyệt nhiên không bị ảnh hưởng khi y chết đi, vì không có một thứ nào thuộc về xác phàm mà y đã dẹp qua một bên. Y đã bỏ đi bộ áo này và đang sống trong một bộ áo khác, nhưng y vẫn còn có thể suy nghĩ và cảm xúc giống như trước kia.
Tôi thấy một đầu óc trung bình khó lòng mà có thể lĩnh hội được thực tại của điều mà chúng ta có thể thấy được bằng mắt phàm. Chúng ta thật khó nhận ra được việc thị giác của chúng ta có tính chất riêng phần biết chừng nào, chúng ta khó lòng mà hiểu được rằng mình đang sống trong một thế giới rộng lớn mà mình chỉ thấy được một phần nhỏ bé. Thế nhưng khoa học vẫn nói với chúng ta một cách chắc như đinh đóng cột là vậy, vì nó mô tả cho chúng ta trọn cả thế giới các sinh vật nhỏ bé (vi trùng); chúng ta hoàn toàn không biết gì về sự tồn tại của vi trùng khi chỉ dùng giác quan của mình mà thôi. Những tạo vật thuộc thế giới này đâu phải là không quan trọng vì quá nhỏ bé, ngược lại khả năng của chúng ta nhằm bảo tồn sức khỏe (và trong nhiều trường hợp bảo tồn sinh mệnh nữa) vốn tùy thuộc vào việc hiểu biết tình trạng và thói quen của một số vi trùng này. Nhưng các giác quan của ta vốn bị hạn chế theo một chiều hướng khác. Chúng ta không thể thấy được chính không khí bao xung quanh mình; các giác quan của ta không biểu thị cho ta sự tồn tại của không khí, ngoại trừ khi nó đang chuyển động thì chúng ta mới biết được nó qua xúc giác. Thế nhưng trong đó cũng có một lực vốn có thể làm đắm những chiếc tàu vững chắc nhất của ta và quật đổ những tòa nhà kiên cố nhất của ta. Bạn thấy xung quanh ta có những mãnh lực vẫn còn ẩn khuất được so với những giác quan tồi tàn và riêng phần của ta; vì vậy rõ ràng là ta phải cảnh giác đừng để mình rơi vào cái sai lầm thông thường chết người khi giả sử rằng điều mà chúng ta thấy được là tất cả những gì cần phải thấy.
Có thể nói là chúng ta bị nhốt lại trong một ngôi tháp và giác quan của ta là những cửa sổ mở ra theo một vài hướng. Chúng ta hoàn toàn bị che kín về nhiều hướng khác, nhưng thần nhãn tức thị giác trên cõi trung giới mở ra cho chúng ta một hay hai cửa sổ thêm nữa, và như vậy mở rộng viễn cảnh của ta, trải ra trước mắt ta một thế giới mới mở rộng lớn hơn vốn vẫn còn là một phần của thế giới cũ mặc dù trước đó chúng ta không hề biết tới.
Khi nhìn vào thế giới mới mẻ này liệu chúng ta thấy điều gì trước tiên ? Giả sử rằng một người trong chúng ta chuyển dời tâm thức của mình sang cõi trung giới thì có sự thay đổi nào làm cho y phải chú ý trước hết ? Thoạt nhìn thì có lẽ có rất ít sự khác nhau và y ắt giả sử rằng mình đang nhìn vào cũng thế giới trước kia. Tôi xin giải thích cho bạn hiểu tại sao lại như thế, ít ra là một phần nào, vì muốn được giải thích rốt ráo thì ta cần có trọn cả một bộ khảo luận về khoa vật lý thuộc cõi trung giới. Cũng giống như ở đây, chúng ta có các trạng thái vật chất khác nhau, thể đặc, thể lỏng và thể hơi, thì cũng vậy, vật chất cõi trung giới cũng có các tình trạng hoặc mức độ thô trược khác nhau, mỗi mức độ này là đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu với mức độ tương tự như nó trên cõi hồng trần. Vì thế cho nên bạn của ta vẫn còn thấy những bức tường và đồ đạc mà y đã từng quen thuộc, vì mặc dù y không còn thấy được vật chất thuộc cõi hồng trần vốn cấu tạo nên những thứ nêu trên song loại vật chất trung giới thô trược nhất vẫn còn phác họa chúng cho bản thân y rõ rệt như bao giờ. Thật ra nếu y khảo sát tỉ mỉ vật đó, thì y ắt nhận thức được rằng mọi hạt (particles) nhìn thấy bằng cách đó đều chuyển  động nhanh chóng thay vì chỉ không thấy được như trường hợp trên cõi trần; nhưng có rất ít người quan sát tỉ mỉ như thế cho nên thoạt tiên kẻ nào chết đi thường không biết rằng đã có một sự thay đổi nào đó đối với mình.
Y nhìn xung quanh và vẫn thấy những căn phòng mà mình quen thuộc, trong đó vẫn có những người mà y đã từng biết và yêu mến, vì họ cũng có những thể  vía vốn ở trong phạm vi tầm nhìn mới mẻ của y. Chỉ dần dần thì y mới nhận thức được rằng về một số phương diện nào đó thì quả là có sự khác nhau. Chẳng hạn như không bao lâu sau, y phát hiện ra rằng mọi cơn đau và mệt mỏi đều biến mất đối với mình. Nếu bạn chỉ cần ý thức được điều này có nghĩa là gì, thì bạn ắt bắt đầu có được một ý niệm nào đó về việc đời sống ở cõi cao thực sự là gì. Bạn hãy nghĩ tới nó, bạn hiếm khi nào có được một phút giây thoải mái, bạn cứ bị căng thẳng với cuộc sống bận rộn cho nên khó lòng mà nhớ ra nỗi lần cuối cùng bạn cảm thấy không mệt mỏi là vào lúc nào; liệu có bao giờ bạn biết trở lại cái ý nghĩa của cụm từ mệt mỏi và đau đớn hay chăng ? Chúng ta đã vận dụng sai lạc giáo huấn về đề tài bất tử ở các xứ sở Tây phương đến nỗi mà người chết thường thấy rằng thật khó mà tin được mình đã chết, chỉ vì y vẫn còn nhìn thấy, nghe thấy, suy nghĩ và cảm xúc. Y thường tự nhủ rằng “Tôi đâu có chết, tôi vẫn sống nhăn như thuở nào và còn khỏe khoắn hơn bao giờ hết”. Dĩ nhiên là như vậy, nhưng đó chính là điều mà y phải trông mong nếu y đã được dạy dỗ đúng đắn. Có lẽ sự thực chứng sẽ đến với y theo phương cách này.
Y trông thấy bạn bè xung quanh mình, nhưng chẳng bao lâu sau y sẽ phát hiện ra rằng không phải lúc nào mình cũng liên lạc được với họ. Đôi khi y nói với họ nhưng họ dường như chẳng nghe thấy; y thử sờ vào họ và phát hiện ra rằng mình không thể gây ấn tượng lên họ. Ngay cả đến lúc ấy, thì trong một thời gian nào đó y vẫn còn tự thuyết phục mình rằng y đang nằm mơ và giờ đây mới thức   tỉnh lại vì có những lúc khác (khi bạn của y đang ở vào tình trạng mà chúng ta gọi là ngủ) thì bạn của y lại hoàn toàn có ý thức về y và nói chuyện với y giống như xưa. Nhưng dần dần y khám phá ra sự thật là xét cho cùng thì y đã chết rồi. Thê là y thường bắt đầu đâm ra bức rức. Tại sao vậy ? Cũng lại chỉ vì cái giáo huấn què quặt mà y đã tiếp thu. Y chẳng hiểu mình đang ở đâu hoặc chuyện gì đã xảy ra, vì tình thế của y chẳng giống như điều mà y trông mong theo quan điểm chính thống. Một vị tướng người Anh có lần phát biểu về cơ hội này như sau: “Nhưng nếu tôi chết rồi thì tôi đang ở đâu ? Nếu đây là thiên đường thì tôi cũng chẳng nghĩ nhiều tới nó; còn nếu đây là địa ngục thì nó lại tốt hơn mức mà tôi mong đợi”.

 

 

Chương 3

LUYỆN NGỤC

 

Những kẻ nào còn tiếp tục giảng dạy cho thế gian những câu chuyện ngụ ngôn ngu ngốc về những điều ghê tờm không hề tồn tại thay vì dùng tới lý trí và óc suy xét phải trái thông thường thì chính họ đã gây ra rất nhiều điều bất ổn hoàn toàn không cần thiết và thậm chí còn là sự đau khổ quằn quại nữa. Thuyết lửa địa ngục vô căn cứ và phạm thượng đã gây tai hại hơn mức mà những kẻ chủ trương biết tới, vì nó đã gây ra nhiều điều ác ở phía bên kia ngôi mộ cũng như ở phía bên này cuộc sống. Nhưng giờ đây người “chết” ắt gặp một số những người chết khác vốn đã được giáo huấn một cách chí lý hơn và sẽ học được rằng chẳng có lý do gì phải sợ hãi, và ở thế giới mới này cũng có một sinh hoạt thuần lý mà người ta phải trải qua cũng giống như ở thế giới cũ. Dần dần y ắt thấy rằng có rất nhiều điều mới mẻ cũng như nhiều điều là một đối thể của điều mà y đã biết rồi; đó là vì trong cõi trung giới này, tư tưởng và dục vọng biểu hiện thành những hình dạng nhìn thấy được mặc dù chúng được cấu tạo hầu hết là từ vật chất tinh vi của cõi này. Khi sinh hoạt trên cõi trung giới của y tiếp diễn, thì những điều này càng ngày càng trở nên nổi bật vì chúng ta phải nhớ rằng lúc nào y cũng đều đều triệt thoái thêm nữa vào trong tự thể. Toàn thể của thời kỳ một kiếp lâm phàm mà chơn ngã thực ra đang trải nghiệm trước hết là việc đặt mình thâm nhập vào vật chất để rồi triệt thoái với những nỗ lực của mình. Nếu người ta yêu cầu một kẻ phàm phu vẽ một đường tượng trưng cho cuộc sống, thì có lẽ y sẽ vẽ một đường thẳng bắt đầu vào lúc sinh ra đời và chấm dứt vào lúc chết; nhưng môn sinh Thông Thiên Học đúng hơn thì biểu diễn cuộc sống thành một hình bầu dục lớn, bắt đầu từ chơn ngã trên cõi thượng trí rồi lại trở về với chơn ngã. Con đường này ắt giáng xuống vào trong phần thấp của cõi trí tuệ rồi giáng xuống vào trong cõi trung giới. Một phần  tương đối rất nhỏ ở đáy của hình bầu dục ắt ở trên cõi hồng trần, và chẳng bao lâu sau đường này sẽ lại thăng lên nhập trở lại vào cõi trung giới và cõi trí tuệ. Do đó cuộc sống trên cõi trần chỉ được biểu diễn bởi cái phần nhỏ của đường cong nằm bên dưới đường biểu thị ranh giới giữa cõi trung giới và cõi hồng trần; còn sự sinh ra và sự chết đi chỉ là những điểm nơi mà đường cong băng ngang qua đường ranh giới đó – rõ rệt tuyệt nhiên nó không phải là những điểm quan trọng nhất trong tổng thể.
Điểm trung tâm thật sự ắt rõ rệt là điểm xa cách chơn ngã nhất – có thể nói là điểm ngoặc – điều mà trong thiên văn học chúng ta gọi là viễn điểm. Đó không phải là sự sinh ra cũng như không là sự chết đi, mà là một điểm giữa của cuộc sống trên cõi trần, khi lực từ chơn ngã đã tiêu tan hết sức bật hướng ngoại của mình và chuyển sang bắt đầu quá trình dài triệt thoái. Dần dần tư tưởng của y sẽ hướng lên trên, y càng ngày càng ít quan tâm tới những vấn đề thuần túy vật chất và rốt cuộc thì y bỏ xác hoàn toàn. Cuộc sống của y trên cõi trung giới bắt đầu, nhưng trong toàn bộ sinh hoạt đó thì quá trình triệt thoái vẫn tiếp tục. Kết quả của điều này là khi thời gian trôi qua y càng ngày càng ít chú ý tới phần vật chất thấp thỏi cấu tạo thành những đối thể của các đồ vật trên cõi trần và y càng ngày càng quan tâm tới phần vật chất cao siêu để kiến tạo nên các hình tư tưởng – cho đến nay đó chỉ là những hình tư tưởng xuất hiện trên cõi trung giới thôi. Như vậy sinh hoạt của y càng ngày càng trở thành sinh hoạt trong thế giới tư tưởng và cái đối thể của thế giới mà y đã rời bỏ ắt mờ nhạt đi trước tầm nhìn của y, không phải vì y thay đổi vị trí của mình trong không gian mà vì mối quan tâm của y đã chuyển dời tiêu điểm. Những ham muốn của y vẫn còn và những hình tư tưởng bao xung quanh y phần lớn là biểu hiện những ham muốn đó, và cuộc sống của y là hạnh phúc hoặc khó chịu ắt chủ yếu là tùy thuộc vào bản chất của những ham muốn này.
Việc nghiên cứu sinh hoạt trên cõi trung giới cho ta thấy rất rõ lý do của nhiều huấn điều đạo đức. Hầu hết mọi người công nhận rằng những tội lỗi gây thiệt hại cho người khác thì dứt khoát và rõ rệt là sai trái, nhưng đôi khi họ lại thắc mắc tại sao lại bảo là sai trái khi họ cảm thấy ghen tuông oán ghét hoặc đầy tham vọng chừng nào mà họ còn chưa để cho mình biểu lộ những xúc cảm này ra bên ngoài thành hành động hoặc lời nói. Việc thoáng nhìn vào thế giới sau khi chết này ắt cho ta thấy chính xác những xúc cảm như thế đã gây thiệt hại như thế nào cho kẻ ấp ủ chúng, và sau khi y chết thì chúng đã khiến cho y đau khổ một cách quằn quại nhất. Chúng ta sẽ hiểu được điều này rõ ràng hơn nếu ta khảo sát một vài trường hợp tiêu biểu của sinh hoạt trên cõi trung giới để xem đâu là những đặc điểm chủ yếu của chúng.
Trước hết ta hãy nghĩ tới kẻ phàm phu không có cá tính, y chẳng đặc biệt tốt mà cũng chẳng đặc biệt xấu, thật vậy, y chẳng có một đặc tính nổi bật nào. Con người đó tuyệt nhiên không hề thay đổi, vì vậy sau khi chết sự vô thưởng vô phạt vẫn còn là đặc trưng chủ yếu của y (tạm gọi là tính vô ký). Y sẽ không hề đặc biệt đau khổ mà cũng chẳng đặc biệt vui sướng, rất có thể là y sẽ thấy sinh hoạt trên cõi trung giới khá buồn tẻ, vì trong buổi sinh thời trên trần thế y chẳng hề phát triển được bất kỳ sự quan tâm thuần lý nào. Nếu y chẳng biết suy nghĩ gì ngoại trừ việc ngồi lê đôi mách hoặc tham gia vào cái gọi là trò thể thao, và cũng chẳng suy nghĩ gì cao xa hơn chuyện làm ăn kiếm tiền hoặc chạy theo thời trang thì y rất có thể là thấy thời gian sẽ kéo dài đằng đẵng khi không còn có thể có được những sự việc như thế nữa. Nhưng trường hợp của một người có những ham muốn mạnh mẽ thuộc loại thấp hèn về mặt vật chất (chẳng hạn như những loại chỉ có thể được thỏa mãn ở trên cõi trần) thì tình trạng của y càng tồi tệ hơn nữa. Ta hãy nghĩ tới trường hợp của một kẻ nghiện rượu hoặc một kẻ đa dâm. Y đã là nô lệ cho cái sự khao khát đè bẹp đó trong buổi sinh thời và nó vẫn còn chưa chấm dứt sau khi y chết – nói cho đúng thì nó còn mạnh mẽ hơn bao giờ hết vì những rung động của nó không còn phát động những hạt nặng nề của cõi trên nữa. Nhưng khả năng thỏa mãn được sự khao khát khủng khiếp này đã xa vời hơn bao giờ hết vì y đã bị mất xác mà chỉ có nhờ vào thể xác thì những ham muốn đó mới được thỏa mãn thôi. Ta thấy rằng lửa ở trong luyện ngục là những biểu tượng không hay ho lắm để diễn tả những rung động của một sự ham muốn đay nghiến như thế. Nó có thể    kéo dài một thời gian lâu, vì nó phải dần dần trải qua việc bị mòn mỏi đi, và số phận của con người chắc chắn là rất khủng khiếp. Thế nhưng có hai điều mà ta phải nhớ kỹ khi xét tới vấn đề này. Trước hết là con người đã hoàn toàn tự tạo ra cho chính mình và xác định mức độ chính xác của quyền năng cũng như thời gian kéo dài ham muốn đó. Nếu trong buổi sinh thời y đã kiểm soát được sự ham muốn đó thì sau khi y chết đi nó đâu còn bao nhiêu hơi sức để mà quậy được y. Hai là, đó là phương cách duy nhất để con người có thể dẹp bỏ được thói xấu. Nếu y chuyển từ một cuộc đời đa dâm và nghiện rượu trực tiếp sang một kiếp lâm phàm sắp tới, thì khi mới sinh ra đời y đã là nô lệ cho thói xấu này – nó sẽ chế ngự y ngay từ lúc sơ sinh và y không có khả năng thoát khỏi nó được. Nhưng giờ đây khi lòng ham mnuốn đã mòn mỏi đi thì y sẽ bắt đầu đời sinh hoạt mới mẻ của mình mà không có gánh nặng đó, và linh hồn vì đã có một bài học nghiêm khắc như vậy cho nên sẽ tinh tấn bằng mọi cách để kềm chế những hạ thể của mình không cho nó lập lại một lỗi lầm giống như thế nữa.
Thế gian đều biết rõ mọi điều này ngay cả trong thời cận đại cũng như thời cổ điển. Ta thấy nó được minh họa rõ rệt trong chuyện thần thoại về Tantalus, y luôn luôn đau khổ vì sự khao khát thôi thúc, thế nhưng số phận của y là bao giờ cũng thấy nước bị rút lại ngay khi nó chạm tới đôi môi nứt nẻ của y. Nhiều tội lỗi khác cũng tạo ra những kết quả rùng rợn như thế, mặc dù mỗi tội đều có những đặc điểm riêng mình. Ta hãy xem kẻ hà tiện sẽ đau khổ như thế nào khi y đâm ra không còn tích trữ được vàng bạc nữa, và có lẽ y biết được rằng những bàn tay xa lạ đang tiêu phí đống vàng bạc mà y tích cóp được. Ta hãy xem kẻ ghen tuông sẽ tiếp tục đau khổ với thói quen của mình như thế nào, vì biết rằng giờ đây y không còn khả năng can thiệp vào mọi chuyện trên cõi trần, thế nhưng cái xúc cảm ghen tuông đó lại mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ta hãy nhớ tới số phận của Sisyphe trong thần thoại Hi Lạp – y đã bị kết tội mãi mãi phải lăn một hòn đá nặng nề lên tới đỉnh một ngọn núi để rồi trơ mắt ra nhìn nó lại lăn xuống vào đúng lúc mà sự thành công dường như đã ở trong tầm tay của mình. Ta hãy xem điều này tiêu biểu chính xác bao nhiêu cho cuộc sống sau khi chết của kẻ có đầy tham vọng thế gian. Y đã trải qua suốt cuộc đời mình có thói quen tạo ra những kế hoạch ích kỷ, và vì vậy y tiếp tục làm như thế trên cõi trung giới; y cẩn thận xây dựng âm mưu của mình cho tới khi nó đã hoàn chỉnh trong tâm trí của y để rồi lại nhận thức được rằng mình đã mất xác phàm rồi mà điều này rất cần thiết để thành tựu được âm mưu. Những hi vọng của y bèn tan thành mây khói, thế nhưng cái thói quen đó đã thâm căn cố đế đến nỗi mà y cứ tiếp tục lăn đi lăn lại hòn đá ấy lên tới tận đỉnh núi tham vọng mãi cho tới khi thói xấu này đã bị mòn mỏi. Thế rồi cuối cùng y nhận ra được rằng mình không cần phải lăn hòn đá nữa và để cho nó nằm im thoải mái ở dưới chân của ngọn đồi.
Chúng ta đã xét tới trường hợp của kẻ phàm phu và của người khác với kẻ phàm phu vì có nhiều ham muốn ích kỷ và thô tục. Giờ đây ta hãy xem xét trường hợp của người khác với kẻ phàm phu theo một chiều hướng khác, y có một quan tâm nào đó có bản chất thuần lý. Để hiểu được cuộc sống sau khi chết dường như tỏ ra thế nào đối với y, ta phải nhớ rằng đa số mọi người trải qua phần lớn sinh hoạt trong lúc thức tỉnh và tốn hầu hết sức lực của mình trong công việc không thực sự thích thú; họ ắt chẳng thèm làm chuyện đó nếu không bắt buộc phải kiếm sống và cấp dưỡng cho những người tùy thuộc vào mình. Ta hãy nhận thức được tình trạng của con người khi không còn cái nhu cầu phải nai lưng ra làm việc kiếm sống nữa vì thể vía đâu có cần thức ăn quần áo hoặc nhà cửa. Lúc bấy giờ lần đầu tiên từ khi còn tấm bé con người mới tự do làm đúng cái điều mà mình ưa thích và có thể dành trọn thời giờ của mình cho bất cứ điều gì có thể là nghề nghiệp mà  mình đã chọn lựa – nghĩa là chừng nào nó còn có bản chất sao cho y có thể thực hiện mà không cần tới vật chất trên cõi trần. Giả sử sự thú vị lớn lao nhất của con người là nơi âm nhạc; ở trên cõi trung giới y có cơ hội lắng nghe mọi thứ âm nhạc hùng vĩ nhất mà cõi trần có thể tạo ra được, và trong những điều kiện mới mẻ này thậm chí y còn có thể nghe được nhiều hơn bao giờ hết vì ở đây có những hài âm khác trọn vẹn hơn mức mà đôi tai không tinh xảo của ta lĩnh hội được cũng ở trong phạm vi chọn lựa của y. Kẻ nào thích thú với nghệ thuật và yêu mến vẻ đẹp trong hình tướng và màu sắc ắt có được mọi sự dễ thương của thế giới cao siêu này mở ra cho y tha hồ chọn lựa. Nếu y thích thú với những vẻ đẹp trong Thiên nhiên thì y ắt có được khả năng vô song để say đắm với nó, vì y có thể dễ dàng và nhanh chóng di chuyển từ nơi này sang nơi khác và thưởng ngoạn những kỳ quan của Thiên nhiên nhanh chóng trôi qua trước mắt y mà con người trên cõi trần cần phải mất hàng năm mới đi tham quan hết được. Nếu óc tưởng tượng của y hướng về  khoa học hoặc lịch sử thì những thư viện và phòng thí nghiệm trên thế giới ắt ở trong tầm sử dụng của y, sự hiểu biết của y về cái quá trình hóa học và sinh học ắt rốt ráo hơn bao giờ hết vì giờ đây y có thể thấy được sự vận hành bên trong cũng như ở bên ngoài, và nhiều nguyên nhân cũng như hậu quả. Trong mọi trường hợp nêu trên thì lại có thêm một sự thích thú kỳ diệu đó là y không thể bị mệt mỏi nữa. Ở đây, khi chúng ta tiến bộ trong việc nghiên cứu hoặc thực nghiệm thì chúng ta rất thường xuyên phải nếm trải việc mình không thể xúc tiến mọi việc thêm nữa vì bộ óc không thể chịu đựng thêm hơn được một mức độ căng thẳng nào đó, nếu không có xác phàm thì dường như không có sự mệt mỏi vì quả thật là bộ óc mới mệt mỏi chứ cái trí thì không biết mệt.
Cho tới nay tôi chỉ nói đến sự thỏa mãn ích kỷ mặc dù nó thuộc một loại trí thức và thuần lý. Nhưng có những người trong đám chúng ta đâu có hài lòng nếu không có điều gì cao siêu hơn nữa – niềm vui lớn nhất của họ trong bất kỳ kiếp sống nào ắt là phụng sự cho đồng loại của mình. Vậy thì sinh hoạt trên cõi trung giới dành điều gì cho họ ? Họ sẽ theo đuổi công trình nhân ái của mình một cách sung sức hơn bao giờ hết và trong những hoàn cảnh tốt đẹp hơn trên cõi trần. Có cả ngàn người mà họ giúp đỡ được và chắc chắn là họ có thể thực sự làm việc tốt hơn mức mà họ thường đạt được trên cõi trần. Vậy là một số người dành trọn đời mình cho phúc lợi chung chung, còn một số người đặc biệt quan tâm tới những trường hợp trong gia đình hoặc bạn bè mình, cả những trường hợp còn đang sống lẫn những trường hợp đã chết. Việc dùng nhóm từ còn đang sống hoặc đã chết quả là một sự đảo ngược kỳ lạ của sự thật, vì chắc chắn là chúng ta đã chết khi chúng ta bị chôn vùi trong những xác phàm thô trược và câu thúc; còn quả thực là họ đang sống với nhiều tự do và năng lực hơn vì họ ít bị cản trở hơn. Thường thường thì người mẹ đã chuyển vào sự sinh hoạt cao siêu này vẫn còn chăm sóc đứa con của mình và quả thật là một thiên thần hộ mệnh cho nó, thường thường thì người chồng “đã chết” vẫn còn lẩn quẩn tiếp xúc với bà vợ đang đau buồn của mình, thậm chí thỉnh thoảng còn lấy làm cảm ơn vì y có thể khiến cho bà ta cảm thấy rằng y sống một cách mạnh mẽ và yêu thương kề cận bên bà hơn bao giờ hết.
Bạn ắt nghĩ rằng nếu thế thì chắc chắn là chúng ta chết càng sớm càng tốt; sự hiểu biết như thế dường như khuyến khích người ta tự tử ! Nếu bạn chỉ biết nghĩ đến bản thân và chỉ nghĩ đến vui sướng của mình thì dứt khoát là như thế đấy. Nhưng nếu bạn nghĩ đến bổn phận của mình đối với Thượng Đế và đối với đồng loại thì bạn sẽ ngay tức khắc thấy rằng nhận xét sau đây phủ nhận quan điểm đó. Bạn ở đây vì có một mục đích – một mục đích mà bạn chỉ có thể đạt được trên cõi hồng trần thôi. Linh hồn phải mất công rất nhiều, phải chịu đựng nhiều sự hạn chế để có được kiếp lâm phàm trên cõi trần, do đó ta không được buông bỏ những nỗ lực của nó một cách không cần thiết. Bản năng sinh tồn đã được đấng thiêng liêng lồng ghép vào trong thâm tâm ta và bổn phận của ta là phải tận dụng cuộc sống trên cõi trần và duy trì nó trong chừng mực mà hoàn cảnh cho phép. Có những bài học mà ta phải học trên cõi này vốn không thể học được ở bất cứ nơi nào khác, và chúng ta học được chúng càng sớm thì chúng ta càng có được tự do mãi mãi khỏi cần phải trở lại cõi hạ giới này với những sinh hoạt bị hạn hẹp nhiều hơn. Do vậy, không ai được quyền tự tử khi chưa tới số, mặc dù khi tới số rồi thì y rất lấy làm vui sướng vì thật ra y sắp chuyển từ việc lao động mệt mỏi sang việc giải lao thoải mái. Thế nhưng mọi thứ mà tôi đã nói với bạn cho đến nay thật là vô nghĩa bên cạnh sự vinh quang của cuộc sống tiếp theo đó – tức là cuộc sống trên cõi trời. Đây là luyện ngục – đó là sự phúc lạc vô hạn mà các tu sĩ đã mơ ước tới và các nhà thơ đã ca tụng – tuyệt nhiên không phải là một giấc mơ mà là một thực tại sống động và vinh diệu. Sinh hoạt trên cõi trung giới là hạnh phúc đối với một số người và bất hạnh đối với những người khác tùy theo sự chuẩn bị mà họ đã thực hiện; nhưng điều tiếp theo sau đó là sự hạnh phúc toàn bích cho tất cả mọi người và thích hợp chính xác với nhu cầu của mỗi người.
Trước khi kết thúc chương này ta hãy xét tới một hoặc hai thắc mắc vốn cứ lẩn quẩn trở đi trở lại trong tâm trí của những kẻ mưu tìm về cuộc sống sau khi chết. Một số người ắt thắc mắc, liệu chúng ta có tiến bộ ở đó chăng ? Hẳn nhiên rồi, vì sự tiến bộ là qui tắc của Thiên Cơ. Nó có thể dành cho chúng ta hoàn toàn tỉ lệ với sự phát triển của ta. Kẻ nào nô lệ cho dục vọng chỉ có thể tiến bộ bằng cách làm cho sự ham muốn đó mòn mỏi đi; thế nhưng đó là điều tốt nhất mà y có thể đạt được ở giai đoạn này. Nhưng kẻ nào vốn tử tế và ưa giúp đỡ người khác thì sẽ học được nhiều điều bằng nhiều cách qua công việc mà y có thể thực hiện trong sinh hoạt trên cõi trung giới đó; y sẽ trở lại trần gian và có thêm nhiều quyền năng và đức tính vì y đã thực hành trên đó với một sự cố gắng bất vị kỷ. Như vậy chúng ta chẳng cần e ngại gì về vấn đề sự tiến bộ.
Còn một điều nữa thường được nêu ra đó là liệu chúng ta có nhận ra được những người thân thương của mình vốn đã từ trần trước chúng ta ? Chắc chắn là chúng ta sẽ nhận ra được vì cả họ và chúng ta có gì thay đổi đâu, thế thì tại sao ta không nhận ra được họ ? Ở đó còn có sự hấp dẫn và nó sẽ đóng vai trò nam châm thu hút lại với nhau những kẻ nào cảm nhận được điều đó một cách dễ dàng và chắc chắn hơn cả dưới đây nữa. Thật vậy nếu người thân thương đã từ trần cách đây rất lâu rồi thì y có thể đã vượt qua bên kia cõi trung giới để nhập vào sinh hoạt trên cõi trời; trong trường hợp đó chúng ta phải chờ cho đến khi chúng ta đạt tới mức đó thì mới gặp lại y được, nhưng khi ta đạt đến mức đó thì ta sẽ có được người bạn của mình hoàn hảo hơn mức mà ta có thể nhận ra được trong cái nhà tù khốn khổ này. Nhưng chắc chắn là những người mà bạn yêu thương đều chẳng hề mất đi đâu cả; nếu họ mới chết gần đây thì bạn ắt tìm thấy họ trên cõi trung giới; nếu họ đã chết lâu rồi thì bạn ắt tìm thấy họ trong sinh hoạt trên cõi trời, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào thì sự đoàn tụ là chắc chắn khi vẫn còn tình xưa nghĩa cũ. Đó là vì tình thương là một trong những quyền năng mãnh liệt nhất trong vũ trụ cho dù khi còn đang sống hay khi đã chết.
Có vô số thông tin thú vị đã trình bày sinh hoạt ở cõi cao này. Bạn nên đọc trong kho tài liệu như quyển Sự Chết và Sau đó của bà Annie Besant, cũng như quyển sách của chính tôi viết về Cõi Trung giới và Phía Bên kia cửa Tử. Bạn nghiên cứu đề tài này thì cũng bõ công thôi vì có biết được sự thật thì bạn mới không còn sợ chết nữa và mới cảm thấy đời sống dễ thở hơn vì chúng ta đã hiểu được mục đích và cứu cánh của nó. Đối với những kẻ nào sống một cuộc đời chân chính và vị tha thì sự chết không hề mang lại đau khổ mà chỉ có niềm vui. Câu ngạn ngữ xưa cũ của La Tinh – Mors janua vita – vốn đúng theo sát nghĩa Sự chết là cánh cổng dẫn vào sự sống. Điều này chính xác là như vậy, đó là cánh cổng dẫn vào một cuộc sống cao siêu và viên mãn hơn. Ở phía bên kia cũng như ở phía bên này của ngôi mộ vẫn lồng lộng cái định luật vĩ đại Sự Công Bằng của Đấng Thiêng liêng, và ở đó chúng ta cũng mặc nhiên tin cậy vào tác động của định luật này giống như ở đây đối với cả bản thân chúng ta lẫn những người mà chúng ta yêu mến. 

Xem tiếp

 

Các thông tin cùng loại này
» BÀN TAY ÁNH SÁNG (2017-11-18 09:53:53)
» Phạm Võng Kinh Tinh Giải T1 (2017-11-13 16:56:46)
» Ngũ giới Đạo thành người (2017-04-06 05:02:34)
» Hành trình TOTHA 2016 (2017-04-06 04:30:03)
» Hành trình TOTHA 2015 (2017-11-17 12:18:16)
» Ngũ giới theo góc nhìn khoa học Tập 1 (2018-03-18 11:59:38)
» Hành trình TOTHA 2014 (2017-11-17 16:32:27)
» Kỷ yếu cùng nhau tu học 2013 (2013-09-19 15:19:17)
» Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời (2011-10-16 17:06:12)
» Nhà tiên tri Edgar Cayce (2011-10-16 16:46:10)
» LƯỢC SỬ THỜI GIAN (2017-11-22 11:55:40)
» ĐẠO CỦA VẬT LÝ (2011-01-15 19:50:17)
» Hành Trình Về Phương Đông (2011-01-14 16:40:56)
» Trở Về Từ Cõi Sáng (2011-01-13 21:57:51)
» TỬ THƯ TÂY TẠNG (2011-01-13 21:06:23)
» Du hành qua các vùng tâm thức (2010-12-31 00:56:18)
» Kỷ yếu Hội thảo Khoa học thực nghiệm Năng lượng Tâm Thức 18/12/2010 (2010-12-30 17:04:04)
» SÁCH THAM KHẢO (2010-12-30 20:29:22)
» Phim tư liệu (2017-04-06 04:50:59)
  1  
 

CÔNG TY KHOA HỌC NĂNG LƯỢNG TÂM THỨC TOTHA
245 Trịnh Đình Trọng, P.Hòa Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM, VN - ĐT0909777929 - 0908883380 - 0909631630 - 0914359159 - Email:   phapluantotha@gmail.com

Copright 2009 www.totha.vn,
All rights reserved

Lượt truy cập: 18002928
Đang online : 63