Chương 4
CÕI TRỜI
Cho tới nay các tôn giáo đều đồng ý tuyên bố về sự tồn tại của cõi trời và xác định rằng sự hưởng thụ phúc lạc trên cõi trời nối tiếp một cuộc sống trên trần thế đã được trải qua hoàn mãn. Ki Tô giáo và Hồi giáo bảo rằng nó là phần thưởng mà Thượng Đế ban cho những kẻ nào đã làm vừa lòng ngài, nhưng hầu hết tín ngưỡng khác đều mô tả nó đúng hơn là kết quả cần thiết của một cuộc sống tốt lành cũng giống hệt như quan điểm của chúng ta trong Thông Thiên Học. Thế nhưng mặc dầu mọi tôn giáo đều đồng ý mô tả cuộc sống hạnh phúc này bằng những từ ngữ huy hoàng thì không một tôn giáo nào lại thành công tạo cho ta được một ấn tượng chân thực khi mô tả. Tất cả những gì được viết ra về cõi trời hoàn toàn không giống gì với bất cứ thứ nào mà chúng tôi biết cho đến nỗi mà chúng tôi thấy nhiều sự mô tả dường như rất buồn cười. Chúng tôi lấy làm ngần ngại khi công nhận điều này liên quan tới những huyền thoại quen thuộc với chúng ta từ khi còn tấm bé, nhưng nếu người ta kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện của một trong các tôn giáo lớn khác thì chúng tôi cũng dễ dàng thấy được điều đó. Trong các thánh thư của Phật giáo và Ấn Độ giáo bạn ắt thấy có những bài tường thuật đao to búa lớn về những khu vườn bạt ngàn trong đó cấy cối đều bằng vàng hoặc bạc, còn trái cây thuộc đủ loại ngọc quí, bất giác bạn cũng phải mỉm cười nếu bạn không chợt nghĩ ra rằng xét cho cùng thì đối với những tín đồ Phật giáo hoặc Ấn Độ giáo thì những câu chuyện của chúng ta về đường phố bằng vàng và những cái cổng bằng ngọc trai thật ra cũng có vẻ hoang đường không kém. Sự thật là yếu tố lố bịch chỉ được du nhập vào những câu chuyện này khi chúng ta xét chúng theo nghĩa đen và không nhận ra được rằng mỗi người chép kinh đều phải trải nghiệm cái nhiệm vụ đó theo quan điểm của riêng mình, và tất cả đều thất bại vì sự thật lớn lao ẩn đằng sau mọi điều đó đều hoàn toàn không thể mô tả được. Người chép kinh Ấn Độ chắc chắn đã thấy một số khu vườn rực rỡ của các vị quốc vương Ấn Độ nơi người ta thường sử dụng những điều trang điểm mà y mô tả. Người chép kinh Do Thái giáo không quen thuộc với những điều như thế, nhưng y ở trong một đô thị to lớn và tráng lệ - có lẽ là Alexandria; vì vậy quan niệm của y về sự lộng lẫy giống như một đô thị nhưng được trang bị không giống bất kỳ đô thị nào trên trần thế bằng những vật liệu trang điểm xa hoa. Như vậy mỗi người đều cố gắng mô tả một sự thật vĩ đại đến nỗi không một ngôn từ nào mà họ dùng trong những dụ ngôn như thế lại quen thuộc với tâm trí của y.
Từ thời đó trở đi đã có những người chứng kiến được sự vinh quang của cõi trời và đã cố gắng mô tả nó một cách hết sức không hài lòng. Trong số những người đó có một vài người nghiên cứu Thông Thiên Học và trong quyển Cẩm nang Thông Thiên Học Số 6 [1], bạn ắt thấy một nỗ lực của chính tôi theo chiều hướng đó. Giờ đây chúng tôi không nói tới vàng bạc, hồng ngọc và kim cương khi chúng tôi muốn truyền đạt ý niệm về sự tinh vi lớn lao nhất cũng như vẻ đẹp của màu sắc và hình tướng; đúng ra thì chúng tôi rút lấy những dụ ngôn từ màu sắc lúc mặt trời lặn và từ mọi sự vinh quang thuộc biển cả và bầu trời vì đối với chúng tôi những thứ này còn hơn cả thiên đường nữa. Thế nhưng những người nào trong chúng tôi đã thấy được sự thật đều thừa biết rằng bất chấp mọi nỗ lực mô tả, chúng tôi đã thất bại hoàn toàn trong việc truyền đạt bất kỳ ý tưởng nào về thực tại cũng giống như những người chép kinh ở Đông phương thì không một ngôn từ nào có thể mô tả được mặc dù mọi người đều một ngày kia sẽ tự mình chứng kiến được nó và biết được nó.
Đó là vì cõi trời này không phải là một giấc mơ; nó là một thực tại chói lọi; nhưng nếu muốn hiểu được bất cứ điều gì về nó thì trước hết chúng ta phải thay đổi một trong những ý niệm tiên quyết của mình về đề tài này. Cõi trời không phải là một nơi chốn mà là một trạng thái tâm thức. Nếu bạn vặn hỏi tôi “Cõi trời ở đâu?” thì tôi ắt phải trả lời bạn rằng nó ở ngay đây, xung quanh bạn vào chính lúc này, gần kề bên bạn giống như không khí mà bạn đang hít thở. Cách đây đã lâu, Đức Phật cũng có dạy rằng ánh sáng luôn luôn ở xung quanh bạn; bạn chỉ cần giựt cái băng bịt mắt mình ra là sẽ thấy ánh sáng. Nhưng việc giựt cái băng ra là thế nào ? Nó có ý nghĩa biểu tượng ra sao ? Đó chỉ là vấn đề nâng tâm thức lên tới một mức độ cao hơn, học cách tập trung tâm thức vào một hiện thể bằng vật chất tinh vi hơn. Tôi đã nói tới khả năng làm như vậy liên quan đến thể vía, nhờ đó ta thấy được cõi trung giới; việc này chỉ cần đẩy tiến trình đó lên một giai đoạn tiếp nối nữa qua việc nâng tâm thức lên tới cõi trí tuệ, vì con người cũng có một cơ thể tương ứng với mức độ đó, thông qua nó y có thể nhận được những rung động của cõi trí tuệ, và nhờ vậy sống trong sự rực rỡ chói lọi của cõi trời trong khi vẫn còn đang ở trong thể xác, mặc dù quả thật là sau khi trải qua một kinh nghiệm như thế thì y ắt chẳng lấy gì làm thích thú khi phải trở lại với xác phàm.
Kẻ phàm phu chỉ đạt đến tình trạng phúc lạc này sau khi chết và không phải ngay tức khắc sau khi chết ngoại trừ những trường hợp rất hiềm hoi. Tôi đã giải thích sau khi chết Chơn ngã đã đều đều triệt thoái vào trong bản thân như thế nào. Trọn cả sinh hoạt trên cõi trung giới thật ra là một quá trình thường xuyên triệt thoái, khi trải qua thời gian linh hồn đạt đến giới hạn của cõi này thì linh hồn cũng chết đi với cõi đó giống hệt khi linh hồn chết đi với cõi trần. Điều này có nghĩa là linh hồn vứt bỏ hiện thể thuộc cõi này, bỏ nó lại đằng sau trong khi chuyển sang một sinh hoạt cao siêu hơn và còn viên mãn hơn nữa. Trước khi có sự chết lần thứ nhì này thì cũng chẳng có một loại đau khổ hoặc đau đớn nào, nhưng cũng giống như sự chết lần thứ nhất thường có một thời kỳ vô ý thức mà Chơn nhơn chỉ thức tỉnh dần dần khỏi trạng thái đó. Cách đây một vài năm, tôi có viết một quyển sách tên là Cõi Devachan, trong ấy ở một chừng mực nào đó tôi cố gắng mô tả điều mà mình chứng kiến và sắp xếp thành bảng biểu đến mức tối đa đủ thứ phân bộ của Vùng Đất Ánh Sáng vinh diệu này, cung cấp những ví dụ mà chúng tôi quan sát được trong quá trình khảo cứu về sinh hoạt của cõi trời. Bây giờ tôi sẽ cố gắng trình bày vấn đề đó theo một quan điểm khác, và những người nào nếu muốn đều có thể bổ sung thông tin bằng cách đọc chính quyển sách đó. Có lẽ phát biểu mở đầu bao quát nhất chính là: Đây là cõi của Tư tưởng Thượng Đế, ở đây chúng ta đang ở chính phạm vi của tư tưởng và mọi thứ mà con người có thể nghĩ ra được đều là một thực tại sống động linh hoạt ở đây. Chúng ta lao động vất vả với một điểm bất lợi lớn lao vì ta có thói quen coi những sự việc vật chất là có thực, còn những sự việc không thuộc về vật chất là giống như giấc mơ và vì vậy không có thực. Trong khi đó thì thực ra mọi sự việc có tính cách vật chất đều bị chôn vùi và ẩn giấu trong loại vật chất này; vì thế cho dù nó có bất kỳ loại thực tại nào thì thực tại đó cũng ít hiển nhiên và khó lòng nhận ra được hơn là khi ta quan sát nó theo một quan điểm của cõi cao. Vì vậy khi nghe nói tới thế giới tư tưởng, chúng ta nghĩ ngay rằng đó là một thế giới không thực được tạo ra từ ‘một loại vật liệu cấu thành các giấc mơ’ (theo cách nói của thi sĩ).
Ta hãy cố nhận thức được rằng khi một người bỏ xác phàm và mở rộng tâm thức đối với sinh hoạt trên cõi trung giới thì cảm giác đầu tiên của y là thấy sinh hoạt đó vô cùng linh động và có thực sao cho y nghĩ rằng: “Giờ đây thì lần đầu tiên tôi mới được biết thế nào là sống”. Nhưng khi đến lượt y rời bỏ sinh hoạt đó để nhập vào một sinh hoạt cao hơn thì y cũng lập lại kinh nghiệm giống hệt như thế, vì đến lượt sinh hoạt này vốn cũng viên mãn bao quát và mãnh liệt hơn sinh hoạt trên cõi trung giới rất nhiều đến nỗi mà một lần nữa ta không thể so sánh được. Thế nhưng còn có một sinh hoạt khác vượt ngoài tầm tất cả những thứ này mà ngay cả sinh hoạt của cõi này so với nó cũng chỉ giống như ánh trăng so với ánh mặt trời; nhưng hiện nay thật là vô ích khi nghĩ tới điều đó.
Có thể có nhiều người nghe ra thấy là phi lý khi cõi tư tưởng lại được cho là có thực hơn cõi hồng trần; được thôi, đối với họ thì cứ phải như thế cho tới khi họ có được một kinh nghiệm nào đó về một sinh hoạt cao hơn cõi trần này, đến lúc đó thì họ mới biết nhiều hơn hẳn bất kỳ ngôn từ nào có thể mô tả cho họ được.
Vậy là trên cõi này ta thấy có tồn tại sự viên mãn vô hạn của Trí tuệ Thượng Đế mở ra với mọi sự giàu có vô biên cho mọi linh hồn tỉ lệ với mức độ tư cách mà linh hồn có được để tiếp thu. Nếu con người đã hoàn tất cơ tiến hóa được dành cho mình; nếu y đã thực chứng viên mãn được và đã phát triển trọn vẹn được mầm mống thiên tính bên trong mình, thì trọn cả sự vinh quang này ắt ở trong tầm tay của y; nhưng vì không ai trong chúng ta đã từng làm được như thế, vì chúng ta chỉ dần dần thăng lên được tới mức độ thành tựu rực rỡ như thế, cho nên té ra là cho đến nay chẳng ai có thể lĩnh hội được trọn vẹn điều đó mà mỗi người đều chỉ rút ra được và thừa nhận từ đó cái mức độ mà những nỗ lực trước kia của mình đã chuẩn bị bản thân mình tiếp thu được. Dụ ngôn Đông phương có trình bày rằng những cá nhân khác nhau mang lại những năng lực rất khác nhau, mỗi người mang lại cái tách của riêng mình, và một số tách thì lớn còn một số tách lại nhỏ; nhưng cho dù lớn hay nhỏ thì mỗi cái tách đều được rót đầy đến mức tối đa, biển phúc lạc có chứa nhiều hơn mức mà tất cả mọi người đều thỏa thuê.
Mọi tôn giáo đều có nhắc tới sự phúc lạc này của cõi trời, thế nhưng ít tôn giáo nào lại trình bày cho ta thấy được một cách đủ minh bạch và chính xác về cái ý niệm chủ chốt mà chỉ có nó thôi mới giải thích hợp lý được làm thế nào mà mọi người đều có thể hưởng phúc lạc như vậy – đây quả thực là chủ điểm của quan niệm này – sự thật là mỗi người đều tạo ra cõi trời của riêng mình bằng cách chọn lựa trong số những điều rực rỡ khôn tả thuộc về Tư tưởng của Chính Thượng Đế. Một người tự quyết định lấy cả mức độ lâu dài lẫn đặc tính của sinh hoạt trên cõi trời do những nguyên nhân mà chính y đã gây ra trong buổi sinh thời; vì vậy chẳng những y có đúng cái số lượng mà y xứng đáng, đúng cái phẩm chất hoan lạc thích hợp nhất với tính tình đặc dị của y, vì đây là một cõi trong đó do chính sự kiện tâm thức của một sinh linh trụ vào đây thì mọi sinh linh đều hưởng được sự phúc lạc tâm linh cao siêu nhất mà mình có thể thụ hưởng – đây là một cõi mà quyền năng đáp ứng với hoài bão của y chỉ bị hạn chế bởi chính năng lực hoài bão của y.
Y đã tạo ra cho chính mình một thể vía bằng vào những ham muốn và đam mê trong buổi sinh thời, và y phải sống trong thể vía đó suốt cái kiếp tồn tại trên cõi trung giới mà thời khắc đó là hạnh phúc hay đau khổ đối với y tùy theo đặc tính của nó. Giờ đây khi đã trải qua cái giai đoạn luyện ngục đó rồi, vì cái phần thấp hèn trong bản thể của y đã bị tiêu mòn mất; bây giờ chỉ còn lại những tư tưởng cao siêu và tinh anh hơn, những hoài bão cao cả và vị tha mà y đã tuôn ra trong buổi sinh thời. Những thứ này tụ tập xung quanh y tạo thành một loại lớp vỏ xung quanh y, thông qua một môi trường như thế y có thể đáp ứng với một vài loại rung động diễn ra trong vật chất tinh vi này. Những tư tưởng bao quanh y là những quyền năng giúp cho y rút tỉa được kho của cải trên cõi trời, và y thấy nó là một kho chứa có tầm cỡ vô hạn sao cho y có thể rút tỉa từ đó phù hợp với năng lực của những tư tưởng và hoài bão mà y đã sản sinh ra trong sinh hoạt trên cõi trần và cõi trung giới. Giờ đây mọi tình cảm và lòng sùng tín cao siêu nhất của y đang tạo ra được kết quả vì chẳng còn lại điều gì khác hơn nữa; mọi thứ có tính cách ích kỷ hoặc đeo bám đều đã bị bỏ lại đằng sau trên cõi trung giới.
Đó là vì có hai loại tình yêu. Có một loại tình yêu vốn khó lòng xứng đáng với tên gọi cao quí như thế; đối tượng lúc nào cũng nghĩ đến việc nó sẽ nhận được bao nhiêu tình yêu để đổi lấy lượng tình yêu mà nó đã đầu tư trong việc luyến ái, nó luôn luôn lo lắng để xem cái lượng tình ái chính xác mà người khác dành cho nó được bao nhiêu, và vì thế nó thường xuyên vướng mắc vào cái vòng lẩn quẩn ác hại của sự ghen tuông và nghi ngờ. Một loại xúc cảm như thế có tính cách đeo bám và đầy tham dục ắt thể hiện thành kết quả nghi ngờ và khốn khổ trên cõi trung giới mà nó rõ rệt là thuộc về đó. Nhưng còn có một loại tình yêu nữa chẳng bao giờ buồn nghĩ xem mình đã được yêu đến mức độ nào, mà chỉ nhắm vào một mục đích là tuôn đổ ra một cách không dè dặt tình cảm của mình hiến dâng cho đối tượng và chỉ cân nhắc đến việc liệu cái xúc cảm đang trào dâng trong tâm hồn mình như thế sẽ biểu hiện ra thành hành động đến mức độ nào. Ở đây không có sự giới hạn vì không có sự đeo bám, không có sự thu hút về bản ngã, không có việc nghĩ tới được yêu đáp trả lại và cũng vì thế có một sự tuôn đổ thần lực ghê gớm mà không một vật chất của cõi trung giới nào có thể biểu hiện được, không một chiều đo nào thuộc cõi trung giới có thể dung chứa được. Nó cần tới một loại vật chất tinh vi hơn và một không gian rộng lớn hơn thuộc một mức độ cao hơn, và năng lượng được sản sinh ra như thế phải thuộc về cõi trí tuệ. Cũng giống như vậy, có một loại sùng tín tôn giáo vốn chủ yếu là chỉ nghĩ tới việc mình cầu nguyện để được cái gì và hạ thấp sự thờ cúng của mình xuống tới mức buôn thần bán thánh; trong khi đó cũng có một lòng sùng tín chân thực vốn hoàn toàn quên mình trong khi lặng ngắm đấng thiêng lịêng. Chúng ta đều thừa biết rằng trong khi đạt được lòng sùng tín cao nhất, ta vẫn thấy có một điều gì đó chưa được thỏa mãn, những hoài bão cao siêu nhất của ta chưa được thực hiện và khi chúng ta thật sự yêu thương một cách bất vị kỷ thì cảm xúc của chúng ta vượt xa hơn hẳn mọi khả năng biểu lộ trên cõi trần đến nỗi mà xúc cảm sâu xa được khuấy động trong tâm hồn ta do loại âm nhạc cao quí nhất hoặc loại nghệ thuật toàn bích nhất đều đạt đến những đỉnh cao và độ sâu mà ta không hề biết tới trên cõi trần thế buồn tẻ này. Thế nhưng mọi thứ đó đều là một loại thần lực mầu nhiệm vượt hẳn mọi tính toán của ta và bằng cách nào đó nó phải tạo ra kết quả ở đâu đó vì luật bảo toàn năng lượng vẫn có giá trị trên các cõi tư tưởng và hoài bão cao siêu cũng chắc chắn giống như luật bảo toàn năng lượng trong cơ học bình thường. Nhưng vì nó phải phản tác động lên kẻ nào đã tác động nó, thế mà nó không thể tác động trên cõi trần vì vật chất của cõi trần có phạm vi hạn hẹp và tương đối thô trược, cho nên bằng cách nào và khi nào thì nó có thể tạo ra được kết quả tất yếu của mình ? Nó chỉ còn có nước đợi cho đến khi con người đạt tới mức độ của nó; nó vẫn cứ là loại năng lượng được tích trữ cho đến khi có cơ hội. Trong khi tâm thức của y tập trung vào cõi hồng trần và cõi trung giới thì nó không thể phản tác động lên y, nhưng ngay khi y đã chuyển dời chính mình hoàn toàn lên cõi trí tuệ thì nó đã sẵn sàng dành cho y những cổng tháo nước của nó đã được mở toang ra và tác động của nó bắt đầu. Sự công bằng hoàn toàn đã được thực hiện và chẳng có một thứ gì bị mất đi đâu cho dù đối với chúng ta trong hạ giới này thì nó dường như đã bị mất hút mục tiêu và chẳng đi đến một kết quả nào.
Chương 5
NHIỀU GIAN NHÀ
Chủ điểm của quan niệm mà giờ đây ta cần phải hiểu đó là cách thức con người tạo ra cõi trời của chính mình. Ở đây trên cõi này nơi mà Tư tưởng của Thượng Đế tồn tại thì chúng tôi có nói rằng mọi vẻ đẹp và sự vinh quang đều có thể quan niệm được; nhưng con người chỉ nhìn thấy nó qua những cửa sổ mà chính mình đã tạo ra. Mọi hình tư tưởng của y đều là một cửa sổ như thế, thông qua đó y có thể đáp ứng với những lực ở bên ngoài. Nếu y chủ yếu chỉ đánh giá cao những sự vật trần tục trong buổi sinh thời thì y chỉ tạo ra được cho chính mình một vài cửa sổ thông qua đó sự vinh quang thượng đẳng này có thể soi sáng cho y. Thế nhưng mọi người đều có được một chút xúc cảm thuần túy và vị tha cho dẫu nó chỉ xảy ra một lần trong trọn cả kiếp sống của y, và giờ đây điều đó sẽ là một cửa sổ dành cho y. Ngoại trừ những kẻ cực kỳ dã man trong những giai đoạn rất sơ khai, mọi người đều chắc chắn có được một điều gì đó trong cái giai đoạn phúc lạc nhiệm mầu này. Thay vì nói theo chính thống giáo rằng một số người sẽ lên thiên đường còn một số người xuống địa ngục, ta ắt chính xác hơn nhiều khi bảo rằng mọi người đều chia sẻ cả hai trạng thái này (nếu ta bắt buộc phải gọi cái sinh hoạt trên cõi thấp nhất của cõi trung giới bằng một danh xưng khủng khiếp là địa ngục), chỉ có điều là tỉ lệ tương đối của chúng lại khác nhau. Ta phải nhớ rằng cho đến nay linh hồn của kẻ phàm phu chỉ ở một giai đoạn phát triển sơ khai. Y đã học cách sử dụng xác phàm một cách tương đối dễ dàng và y cũng có thể hoạt động tương đối tự do trong thể vía, mặc dù hiếm khi nào y có thể nhớ được những hoạt động của nó để ghi khắc vào óc phàm; nhưng cho đến nay thể trí của y tuyệt nhiên không phải là một hiện thể theo bất kỳ ý nghĩa chân thực nào, vì y không thể sử dụng nó giống như các hạ thể kia, y không thể du hành trong thể trí cũng không thể sử dụng những giác quan của nó để tiếp nhận thông tin một cách bình thường.
Vì vậy ta không được nghĩ rằng y ở trong tình trạng hoạt động lăn xăn hoặc có thể di chuyển thoải mái giống như khi y ở trên cõi trung giới. Tình trạng của y ở đây chủ yếu là có tính chất tiếp thu và việc y liên lạc với thế giới bên ngoài chỉ diễn ra thông qua những cửa sổ của chính y, do đó cực kỳ hạn hẹp. Kẻ nào mà hoạt động được trọn vẹn ở đây thì hầu như đã là siêu nhân rồi vì y phải là một chơn linh được vinh danh, một thực thể cao cả và tiến hóa cao. Y sẽ có được ý thức trọn vẹn trên đó và sử dụng thể trí cũng thoải mái như kẻ phàm phu sử dụng xác phàm, và thông qua thể trí những địa hạt tri thức cao siêu rộng lớn ắt mở rộng ra cho y.
Nhưng chúng ta đang nghĩ tới một kẻ cho đến nay kém tiến hóa hơn mức đó, người này chỉ có những cửa sổ và chỉ nhìn thấy qua những cửa sổ đó. Để hiểu rõ được cõi trời của y ta phải xét tới hai điều: mối quan hệ của y với chính cõi này và quan hệ của y với bạn bè. Vấn đề quan hệ của y với môi trường xung quanh trên cõi này được chia thành hai phần, vì trước hết chúng ta phải nghĩ tới việc vật chất trên cõi này bị uốn nắn theo tư tưởng của y và hai là các lực trên cõi này được khơi hoạt để đáp ứng với những hoài bão của y.
Tôi đã đề cập tới cách thức con người bao quanh chính mình bằng những hình tư tưởng; ở đây trên cõi này chúng ta ở ngay tụ điểm của tư tưởng cho nên tự nhiên là những hình tư tưởng đó cực kỳ quan trọng đối với những cân nhắc như thế. Có những lực sống động xung quanh y đó là những cư dân thiên thần dũng mãnh của cõi này, nhiều đẳng cấp thiên thần rất bén nhạy với một vài hoài bão của con người và sẵn sàng đáp ứng với những hoài bão đó. Nhưng tự nhiên là cả tư tưởng lẫn hoài bão của y đều chỉ đi theo những đường lối mà y đã chuẩn bị sẵn trong buổi sinh thới. Dường như là khi y được chuyển dời lên một cõi có sức mạnh và sức sống siêu việt như thế thì y được kích động với những hoạt động hoàn toàn mới theo những đường lối cho đến nay không quen thuộc, nhưng điều này không thể có được. Thể trí của y tuyệt nhiên không giống như các hạ thể khác và y tuyệt nhiên không hoàn toàn kiểm soát được nó. Suốt qua một quá khứ bao gồm nhiều kiếp, nó đã quen nhận ấn tượng và sự kích động từ những hành động bên dưới thông qua các hạ thể chủ yếu là từ thể xác và đôi khi là từ thể vía; nó đã thực hiện rất ít theo đường lối tiếp thu những rung động trí tuệ trực tiếp trên cõi của riêng mình và nó không thể thình lình bắt đầu tiếp thu và đáp ứng với chúng. Vì vậy hầu như con người không phát khởi được bất kỳ tư tưởng mới mẻ nào ngoại trừ những tư tưởng mà y đã hình thành rồi, đó là những cửa sổ mà thông qua đó y nhìn ra thế giới mới mẻ của mình.
Xét về những cửa sổ này chúng ta có hai khả năng thay đổi: chiều hướng mà người ta nhìn theo chúng và loại kính thủy tinh cấu tạo nên chúng. Có rất nhiều chiều hướng mà tư tưởng cao siêu có thể theo đuổi. Một số chiều hướng này chẳng hạn như tình yêu và lòng sùng tín thường có tính cách cá nhân đến nỗi mà có lẽ ta nên xem xét chúng trong mối liên quan của con người với những người khác; thay vào đó trước hết chúng ta hãy xét một ví dụ mà yếu tố cá nhân này không xen vào khi chúng ta chỉ phải bàn tới môi trường xung quanh. Giả sử như một trong những cửa sổ của y để nhập vào cõi trời là cửa sổ của âm nhạc. Ở đây ta có một lực rất mạnh; bạn biết âm nhạc có thể nâng cao con người một cách kỳ diệu xiết bao, có thể nhất thời khiến y thành ra một sinh linh mới trong một thế giới mới; nếu bạn đã từng trải nghiệm tác dụng của âm nhạc thì bạn ắt nhận ra được rằng ở đây chúng ta đang giáp mặt với một quyền năng kinh hồn. Kẻ nào không có âm nhạc ngự trị trong linh hồn thì không có được một cửa sổ mở ra theo chiều hướng đó, nhưng kẻ nào có cửa sổ âm nhạc ắt sẽ nhận được thông qua nó ba tập hợp ấn tượng khác hẳn nhau, tuy nhiên mọi ấn tượng này đều biến thiên theo loại kính thủy tinh tạo nên cửa sổ của y. Rõ rệt là kính thủy tinh có thể hạn chế rất nhiều tầm nhìn của y; nó có thể là kính màu và như vậy chỉ tiếp nhận một vài loại tia sáng hoặc nó có thể bằng vật liệu tồi tàn như vậy nó làm méo mó và đen xỉn mọi tia sáng đi vào thủy tinh. Chẳng hạn như trong khi trên trần thế một người chỉ có thể đánh giá cao được một loại âm nhạc thôi v.v. . . Nhưng giả sử rằng cửa sổ âm nhạc của y thuộc loại tốt thì thông qua đó y sẽ nhận được gì ?
Trước hết y ắt nhận thấy rằng âm nhạc đó là biểu hiện của chuyển động có thứ tự của các lực thuộc cõi này. Có một sự đúng đắn nhất định đằng sau ý niệm thi vị về âm nhạc thuộc các tầng trời vì trên các cõi cao này thì mọi sự vận động và tác động thuộc bất kỳ loại nào đều tạo ra những sự hài hòa vinh diệu cả về âm thanh lẫn về màu sắc. Mọi tư tưởng đều biểu hiện theo kiểu này: tư tưởng của y cũng như tư tưởng của người khác đều biểu hiện thành một loạt hợp âm hằng biến động dễ thương song khôn tả giống như hàng ngàn cây hạc cầm . Đối với y sự biểu lộ âm nhạc trong sinh hoạt sống động và rực rỡ của cõi trời ắt là một loại hậu cảnh hằng hữu và bao giờ cũng hoan hỉ cho mọi kinh nghiệm khác của y.
Hai là, trong số những cư dân của cõi này có một loại thực thể, một đẳng cấp lớn các thiên thần (theo cách gọi của những người bạn Ki Tô giáo) vốn đặc biệt hiến mình cho âm nhạc và quen biểu hiện bằng âm nhạc tới một mức độ trọn vẹn hơn các thực thể khác. Cổ thư của người Ấn Độ gọi họ là Gandharvas. Người nào có linh hồn hòa nhịp với âm nhạc chắc chắn là thu hút sự chú tâm của họ, y sẽ liên lạc được với một số thiên thần này và nhờ vậy càng ngày càng hưởng thụ được qua việc học tập mọi tổ hợp mới mẻ kỳ diệu mà họ vận dụng. Ba là y sẽ chăm chú lắng nghe thưởng thức âm nhạc của đồng loại mình thực hiện trên cõi trời. Ta hãy nghĩ xem có biết bao nhiêu nhà soạn nhạc là tiền bối của y: Bach, Beethoven, Mendelssohn, Handel, Mozart, Rossini, tất cả đều ở đó không chết mà tràn đầy sinh hoạt sung sức, bao giờ cũng tuôn đổ ra âm điệu vĩ đại hơn, những hài âm vinh quang hơn bất cứ thứ nào mà họ đã từng biết trên trần thế. Mỗi một âm điệu này quả thật là một suối nguồn nhạc du dương trầm bổng và nhiều sự linh hứng cho các nhạc sĩ trên trần thế chúng ta, quả thật chỉ là một dư âm thoang thoảng xa xăm của những bài hát ngọt ngào đó. Chúng ta nhận thấy ngay rằng thiên tài trên cõi hạ giới này chẳng qua chỉ là phản ánh của những quyền năng vô hạn thuộc các bậc tiền bối của chúng ta. Chúng ta thường nghĩ tới kẻ nào tiếp thu được dưới đây ắt có thể tiếp nhận được một tư tưởng nào đó của họ và mô phỏng lại đến mức tối đa trên cõi hạ giới này. Các bậc thầy vĩ đại về âm nhạc đã từng nói với chúng ta bằng cách nào mà đôi khi họ nghe trọn được một nhạc kịch tôn giáo vĩ đại nào đó, một hành khúc hào hùng nào đó, một bản đồng ca cao quí nào đó trong một hợp âm vang dội; làm thế nào mà sự linh hứng đó đã đến với họ theo cách nêu trên mặc dù khi họ cố gắng viết nó ra thành nốt nhạc thì cần phải có nhiều trang nhạc mới diễn tả hết được. Trên đó một hợp âm hùng tráng ắt diễn đạt được điều mà ở dưới đây ta phải mất hàng giờ mới diễn đạt được một cách kém hiệu quả hơn.
Kinh nghiệm của con người mà cửa sổ là nghệ thuật thì cũng giống như thế. Y cũng có được ba khả năng thú vị vì trật tự trên cõi này biểu diễn qua màu sắc cũng như qua âm thanh, và tất cả những người nghiên cứu Thông Thiên Học đều quen thuộc với sự thật là có một ngôn ngữ màu sắc của Chư thiên, tức là một đẳng cấp chơn linh liên lạc với nhau bằng những tia chớp lóe màu sắc rực rỡ. Lại nữa, mọi họa sĩ lớn thuộc thời trung cổ đều vẫn còn đang làm việc không phải là với cọ vẽ và giá vẽ mà bằng cách dùng quyền năng tư tưởng để uốn nắn vật chất cõi trí tuệ theo một cách dễ dàng hơn nhiều, song cũng thỏa đáng hơn vô vàn. Mọi họa sĩ đều biết quan niệm của y trong trí đã không được biểu diễn thành công nhất trên giấy vẽ hoặc vải vẽ, nhưng ở đây tâm niệm biến thành hiện thực và không thể thất vọng được. Điều này cũng đúng với mọi chiều hướng tư tưởng sao cho thật ra có vô số điều được hưởng thụ và học hỏi vượt xa mức mà tâm trí hạn hẹp của ta có thể lĩnh hội được ở dưới đây.
Chương 6
BẠN BÈ CỦA CHÚNG TA Ở TRÊN TRỜI
Nhưng chúng ta hãy quay lại phần thứ nhì của đề tài tức là vấn đề mối quan hệ của con người với những người mà y yêu thương hoặc với những người mà y cảm thấy sùng tín hoặc ngưỡng mộ. Người ta cứ hỏi gặng đi gặng lại chúng tôi rằng trong sinh hoạt rộng lớn này liệu họ có biết hoặc gặp được những người thân thương của mình hay chăng; liệu trong số mọi sự lộng lẫy không thể tưởng tượng được này họ có hoài công tìm kiếm những khuôn mặt quen thuộc mà nếu không có những khuôn mặt đó thì tất cả dường như chỉ là phù phiếm đối với họ. May mắn thay cho câu hỏi này là lời giải đáp thật minh bạch và vô điều kiện: không còn nghi ngờ gì nữa, những người bạn sẽ ở đó thậm chí còn sung mãn hơn và có thực hơn bao giờ hết so với khi họ sống chung với chúng ta.
Thế nhưng người ta lại thắc mắc rằng: “Nếu người bạn của chúng tôi đã hưởng sinh hoạt trên cõi trời rồi thì liệu họ có thể thấy chúng tôi ở dưới đây chăng ? Liệu họ có quan sát chúng tôi và chờ đợi chúng tôi không ?” Thật là khó lòng, vì có những khó khăn cản đường cả hai thuyết này. Làm sao mà người quá cố có thể hạnh phúc được nếu y ngoái nhìn lại và thấy những người mình yêu thương đang buồn rầu hoặc đau khổ; hoặc tệ hơn nữa là đang phạm tội ? Nếu chúng ta chấp nhận phương án khác theo đó y không thấy nhưng chỉ đang chờ đợi thì hoàn cảnh này cũng chẳng có gì khá hơn. Đó là vì con người sẽ phải chờ đợi một thời kỳ dài dễ gây mỏi mệt, một thời kỳ ngưng đọng đau khổ thường kéo dài qua nhiều năm, trong khi đó có nhiều trường hợp người bạn đâm ra thay đổi nhiều đến mức y không còn đồng cảm nữa. Trong hệ thống mà Thiên nhiên đã khôn ngoan cung cấp cho ta mọi khó khăn này đều tránh được; những kẻ mà con người yêu thương nhất bao giờ cũng cận kề với y và luôn luôn xuất hiện dưới dạng cao cả nhất và tốt đẹp nhất sao cho không một bóng dáng bất hòa hoặc thay lòng đổi dạ nào có thể xen vào giữa đôi bên, vì lúc nào y cũng nhận được từ họ đúng cái điều mà y mơ ước. Sự dàn xếp này vô cùng cao siêu hơn bất cứ điều gì mà óc tưởng tượng của con người có thể phô diễn cho ta thay vào đó (theo như ta quả thực trông đợi) vì mọi sự suy đoán ấy vốn dựa theo ý tưởng con người nghĩ ra điều gì tốt đẹp nhất, nhưng sự thật thì đó là ý tưởng của Thượng Đế. Tôi xin cố gắng giải thích điều này.
Bất cứ khi nào ta yêu thương một người thật sâu sắc thì ta đều tạo ra một hình tư tưởng kiên cố về người đó và y thường hiện diện trong tâm trí của ta. Tất nhiên là chúng ta mang theo hình tư tưởng đó vào trong cõi trời của mình, vì đó là mức độ vật chất mà hình tư tưởng tự nhiên là thuộc về nó. Nhưng tình thương vốn tạo dựng và nuôi dưỡng một hình tư tưởng như thế là một lực rất mãnh liệt – một lực đủ mạnh để đạt tới và tác động lên linh hồn của người bạn đó, vốn là con người chân thực mà ta yêu mến. Linh hồn đó tức khắc nồng nhiệt đáp ứng và tuôn đổ bản thân vào trong hình tư tưởng mà chúng ta đã tạo ra về người bạn và bằng cách đó ta thấy bạn mình quả thực hiện diện với chúng ta linh hoạt hơn bao giờ hết. Nên nhớ rằng chúng ta yêu thương linh hồn chứ không phải là thể xác, và chúng ta kề cận với linh hồn ở đây. Người ta có thể nói rằng: “Được thôi, ắt là như vậy nếu người bạn đã chết rồi, nhưng giả sử y vẫn còn sống thì y không thể cùng một lúc ở hai nơi chốn khác nhau. Sự thật là xét về vấn đề này thì y có thể cùng một lúc ở hai nơi chốn khác nhau, và thường là ở nhiều hơn cả hai nơi nữa; cho dù y ở tình trạng mà ta thường gọi là còn sống hoặc tình trạng mà ta thường gọi là đã chết rồi, thì điều này cũng chẳng có gì khác nhau. Ta hãy rán hiểu xem linh hồn thực sự nghĩa là gì thì ta mới lĩnh hội được làm thế nào có thể như vậy.
Linh hồn thuộc về một cõi cao hơn và là một sự vật cao cả vĩ đại hơn bất kỳ biểu lộ nào của nó. Mối quan hệ của nó với các biểu lộ là quan hệ của một chiều đo này với một chiều đo khác: quan hệ của hình vuông đối với một đường thẳng hoặc một hình khối vuông đối với một hình vuông. Không một số lượng hình vuông nào có thể tạo ra được hình khối vuông vì hình vuông chỉ có hai chiều đó còn hình khối vuông có tới ba chiều đo. Cũng vậy không có một số lượng biểu diễn nào trên bất kỳ cõi thấp nào có thể vét cạn được sự viên mãn của linh hồn vì linh hồn ở một mức độ cao hơn hẳn. Y đầu tư một phần nhỏ bản thân vào trong một thể xác để thu được kinh nghiệm vốn chỉ có thể thực hiện trên cõi này; vào một lúc nào đó y chỉ có thể sử dụng một thể xác vì đó là định luật; nhưng cho dẫu y có thể sử dụng một ngàn thể xác thì chúng cũng không đủ sức biểu diễn chân tướng của linh hồn. Y chỉ có thể có một thể xác duy nhất, nhưng nếu y khơi dậy được tình thương của một người bạn và người bạn đó có một hình tư tưởng kiên cố của y luôn luôn hiện diện trong tư tưởng của người bạn, thì y có thể đáp ứng với tình thương đó bằng cách tuôn đổ sự sống của chính mình vào trong hình tư tưởng đó, và làm cho nó linh hoạt để thực sự biểu diễn được mình trên cõi này, vốn cao hơn cõi hồng trần tới trọn cả hai cõi. Vì vậy nó có thể biểu diễn được những đức tính của y trọn vẹn hơn nhiều.
Nếu ta vẫn còn cảm thấy khó hiểu làm thế nào mà tâm thức của linh hồn có thể hoạt động được trong sự biểu lộ đó cũng như trong sự biểu lộ dưới đây, thì ta hãy so sánh điều này với một sự kinh nghiệm thông thường trên cõi trần. Khi ngồi trong một cái ghế dựa, mỗi người trong chúng ta đều đồng thời có ý thức về nhiều sự tiếp xúc của thể xác. Y có tiếp xúc với cái mặt ghế, chân y dựa trên mặt đất, tay y dựa vào cái thành ghế hoặc có lẽ đang cầm một quyển sách, thế mà bộ óc của y đâu có khó khăn gì trong việc cùng một lúc nhận thức được mọi sự tiếp xúc này. Vậy thì linh hồn (vốn có tâm thức cao cả hơn hẳn so với ý thức trên cõi trần) lại phải gặp khó khăn khi đồng thời có ý thức nơi nhiều hơn một biểu lộ trên các cõi hoàn toàn ở dưới linh hồn ? Quả thật là có một con người duy nhất cảm thấy thấy cả những sự tiếp xúc khác nhau này; quả thật là có một người duy nhất cảm thấy mọi hình tư tưởng khác nhau này và nó đang thực sự linh hoạt và yêu thương trong mọi hình tư tưởng ấy. Ở đó ta có linh hồn luôn luôn đạt mức tốt nhất, vì đây là một biểu hiện viên mãn hơn hẳn so với mức trên cõi trần ngay cả trong những hoàn cảnh thuận lợi nhất.
Ta có thể thắc mắc liệu điều này có ảnh hưởng tới sự tiến hóa của người bạn về bất kỳ phương diện nào hay chăng ? Chắc chắn là có, vì nó giúp cho y có thêm cơ hội để biểu lộ được. Nếu y có một thể xác thì y đã học được những bài học thể chất thông qua thể xác rồi, nhưng điều này đồng thời còn giúp cho y phát triển được đức tính yêu thương nhanh hơn hẳn so với hình tư tưởng trên cõi trí tuệ mà bạn đã dành cho y. Vì thế tình thương của bạn dành cho y đã mang lại nhiều điều lớn lao giúp cho y. Như ta đã nói, linh hồn có thể biểu lộ qua nhiều hình tư tưởng nếu nó có đủ may mắn để được người ta tạo ra những hình tư tưởng cho nó. Một kẻ được nhiều người yêu mến có thể tham gia vào nhiều cõi trời cùng một lúc, và như vậy có thể tiến hóa nhanh hơn nhiều, nhưng cơ hội rộng lớn phụ thêm này lại là kết quả trực tiêp và là phần thưởng của những đức tính dễ thương giúp thu hút về phía y cái sự luyến ái nể vì của biết bao nhiêu đồng loại. Như vậy, chẳng những y nhận được tình thương của tất cả những người này, mà nhờ vào sự tiếp nhận đó bản thân y còn tăng tiến tình thương hơn nữa cho dù những người bạn còn sống hay đã chết.
Tuy nhiên ta nhận thấy rằng có thể có hai điều hạn chế sự hoàn thiện của cách giao tiếp này. Một là hình tư tưởng về người bạn của mình có thể chỉ riêng phần và bất toàn sao cho nhiều đức tính cao siêu của người bạn không thể biểu diễn được, do đó không thể bộc lộ qua hình tư tưởng. Hai là có thể có một khó khăn nào đó về phía người bạn của mình. Bạn có thể đã tạo ra một quan niệm không được chính xác lắm, nếu bạn của mình còn chưa phải là một linh hồn tiến hóa cao thì có thể thậm chí bạn đã đánh giá cao người bạn theo một hướng nào đó và trong trường hợp này hình tư tưởng của bạn có thể có một khía cạnh nào đó mà người bạn kia không thể hoàn toàn thực hiện được. Tuy nhiên, trường hợp này rất ít khi xảy ra và chỉ có thể khi một đối tượng hoàn toàn không xứng đáng lại được thần tượng hóa một cách thiếu khôn ngoan. Ngay cả lúc bấy giờ thì con người tạo ra hình tư tưởng cũng chẳng thấy người bạn mình có gì thay đổi hoặc thiếu sót vì người bạn này ít ra cũng có thể minh chứng được lý tưởng của mình nhiều hơn mức trong buổi sinh thời. Vì chưa tiến hóa cao cho nên người bạn có thể chưa hoàn hảo, nhưng ít ra thì y cũng còn khá hơn trước, do đó không có gì làm mất vui cho kẻ đang ở trên cõi trời. Bạn của mình có thể tuôn ra hàng trăm hình tư tưởng với những đức tính mà mình có, nhưng khi y chưa phát triển được một đức tính nào đó thì y cũng không thể đột nhiên làm cho nó tiến triển được chỉ vì bạn giả sử rằng y đã được đức tính đó. Đây là ưu điểm to lớn mà những người tạo hình tư tưởng có được so với mức không làm cho họ phải thất vọng vì không thể có sự thất vọng như thế, nói cho đúng hơn là đối với những người có thể vươn lên cao vượt khỏi cái quan niệm cao siêu nhất mà hạ trí có thể hình dung ra được. Nhà Thông Thiên Học nào tạo ra trong trí mình hình tư tưởng về Chơn sư đều biết rằng mọi sự khiếm khuyết là do lỗi của mình, vì từ đó y đã rút ra được một độ sâu bác ái và quyền năng mà cái dây dọi trí tuệ của y chưa từng thăm dò được.
Nhưng người ta có thể thắc mắc rằng vì linh hồn mất quá nhiều thời gian để hưởng thụ sự phúc lạc của cõi trời, cho nên đâu là cơ hội của y để phát triển trong khi ở trên đó ? Những cơ hội này có thể chia thành ba loại, mặc dù mỗi loại có thể có nhiều biến thể. Một là nhờ vào một số đức tính nơi bản thân y đã mở ra được một số cửa sổ vào trong cõi trời này; bằng cách liên tục vận dụng những đức tính đó qua một thời gian lâu dài như thế, y sẽ tăng cường chúng lên rất nhiều và trong kiếp tới y sẽ trở về trần thế và được thiên phú dồi dào theo chiều hướng đó. Mọi tư tưởng đều được củng cố bằng cách lập đi lập lại và kẻ nào mất cả ngàn năm trời chủ yếu để tuôn ra những tình cảm vị tha thì chắc chắn là vào cuối thời kỳ đó sẽ biết được tình thương mạnh mẽ và tốt đẹp đến mức nào.
Hai là nếu thông qua cửa sổ đó, y tuôn ra một hoài bão khiến y tiếp xúc được với một trong các cấp đẳng lớn chơn linh thì y chắc chắn là sẽ thu hoạch được nhiều điều do sự giao tiếp với các chơn linh đó. Trong âm nhạc họ sẽ sử dụng mọi loại hài âm và biến điệu mà trước kia y chưa hề biết tới, trong nghệ thuật họ sẽ quen thuộc với cả ngàn loại hình mà y chưa hề quan niệm tới. Nhưng tất cả những điều này sẽ dần dần gây ấn tượng lên y và cũng bằng cách này, y sẽ thoát ra khỏi cõi trời vinh quang đó mà phong phú hơn nhiều so với khi y nhập vào đó.
Ba là y sẽ có được thêm thông tin qua những hình tư tưởng mà y đã tạo ra nếu bản thân người này tiến hóa đủ cao để có thể dạy dỗ y. Một lần nữa, nhà Thông Thiên Học nào đã tạo ra được hình tư tưởng về một Chơn sư ắt nhờ đó mà có được sự trợ giúp và giáo huấn rất xác định, và ở một mức độ kém hơn thì những người thuộc trình độ kém hơn cũng có thể đạt được như vậy.
Vượt trên mọi điều này là cuộc sống của linh hồn hay chơn ngã trong thể thượng trí, tức là hiện thể mà linh hồn mang theo mình từ kiếp này sang kiếp khác, ngoại trừ việc tiến hóa dần dần. Thậm chí cái sinh hoạt vinh quang trên cõi trời đó cũng sẽ có lúc chấm dứt, lúc bấy giờ đến lượt thể trí cũng bị bỏ quên giống như những thể khác bị bỏ rơi và sinh hoạt trong thể thượng trí bắt đầu. Ở đây linh hồn không cần cửa sổ nào cả vì đây là nơi cư ngụ chân thực của nó, và ở đây mọi bức tường đều sụp đổ. Cho đến nay đa số mọi người chỉ có rất ít ý thức về một tình trạng cao tột như thế này; họ vẫn còn mơ mộng không quan sát đầy đủ và hiếm khi nào tỉnh táo, nhưng tầm nhìn như vậy là chân thực mặc dù nó bị hạn chế do họ chưa được phát triển. Thế nhưng mỗi khi trở lại thì họ sẽ thấy những sự hạn chế này thu hẹp đi và bản thân họ sẽ trở nên cao cả hơn sao cho sinh hoạt chân thực nhất này sẽ rộng mở và viên mãn hơn đối với họ. Khi sự cải thiện tiếp tục thì sinh hoạt trong thể thượng trí này càng ngày càng dài ra, chiếm một tỉ lệ càng ngày càng lớn so với sự tồn tại trên các cõi thấp hơn. Và khi đã phát triển chẳng những con người có thể tiếp nhận mà còn có thể cho ra nữa. Lúc bấy giờ quả thật là sự chiến thắng của y đã đến gần, vì y đang học bài học của Chúa Ki Tô, học được vinh quang tột độ của lòng hi sinh, niềm vui tối cao trong việc tuôn đổ mọi sự sống của mình ra để trợ giúp cho đồng loại, tận hiến bản thân cho mọi người, tận hiến sức mạnh thiên giới để phục vụ con người, tận hiến mọi sức lực huy hoàng trên cõi trời để giúp cho những đứa con đang phấn đấu trên trần thế. Đây là một phần của sinh hoạt mở ra trước mắt chúng ta, đây là một số bước mà ngay cả chúng ta (vốn cho đến nay vẫn còn ở dưới đáy của cái thang bằng vàng) cũng có thể thấy vươn lên trước mắt mình sao cho chúng tôi có thể tường thuật chúng lại cho bạn vốn còn chưa thấy được chúng, để cho bạn cũng có thể mở mắt mình ra với sự huy hoàng lộng lẫy không thể tưởng tượng được vốn bao xung quanh bạn ở đây và ngay bây giờ trong sinh hoạt thường nhật buồn tẻ này. Đây là một phần của phúc âm mà Thông Thiên Học mang lại cho bạn: chắc chắn rằng tương lai cao quí này sẽ dành cho tất cả. Nó vốn chắc chắn vì nó đã ở đây rồi, vì muốn kế thừa được nó chúng ta chỉ cần thích ứng được nó.
Xem tiếp
|