CHUYÊN MỤC
ĐỒNG TÂM
LỊCH ÂM DƯƠNG
LIÊN KẾT WEBSITE
Thông tin khoa học cơ bản » THƯ VIỆN TOTHA  » Chi tiết
 
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học thực nghiệm Năng lượng Tâm Thức 18/12/2010 tt 3
Hội thảo Khoa học Thực nghiệm Tâm linh tổ chức tại Hội trường Nhà Bảo tàng Quân khu 7 cổng số 3 Phạm văn Hai Q.Tân Bình TP.HCM lúc 7h40 ngày 18/12/2010 qui tụ đông đủ các nhà Khoa học, các nhà Ngoại cảm, các Tăng,Ni khắp 3 miền đất nước...

 

            NGOẠI CẢM TỪ CÁI NHÌN PHẬT GIÁO
                                                 ĐĐ.TS. Thích Nhật Từ
                                Phó Viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM
 
1. Ngoại cảm và thần thông
Ngoại cảm là năng lực nhận biết và truyền thông đặc biệt của nhà ngoại cảm, thường được nhà ngoại cảm sử dụng trong truyền thông với người âm ở thế giới vô hình, mà Phật giáo thường gọi là hương linh chưa siêu thoát. Năng lực truyền thông đó không sử dụng bằng các giác quan của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân như con người thông thường. Năng lực ngoại cảm có thể giúp nhà ngoại cảm cảm nhận được tần số tâm thức của vong linh.
Khi biết mình có năng lực đặc biệt, một số nhà ngoại cảm khủng hoảng trong thời gian đầu. Người không có kiến thức về lãnh vực này cho rằng nhà ngoại cảm là người nửa âm, nửa dương. Theo tinh thần Phật giáo, nhà ngoại cảm là con người đóng vai trò quan trọng, mang lại niềm hy vọng và hạnh phúc cho nhiều gia đình, vốn có thao thức muốn biết thân phận của thân bằng quyến thuộc đã chết trong các cuộc chiến, trong thiên tai, chết bất đắc kỳ tử hoặc tai nạn gây ra. Công việc của nhà ngoại cảm là bắt nhịp cầu đoàn tụ, mang hạnh phúc đến cho người sống và kẻ mất. Việc phát hiện ra hài cốt mất tích chẳng những mang ý nghĩa xã hội, mà còn có giá trị trị liệu và chuyển hóa lớn.
Khái niệm “thần thông” trong Phật giáo có nghĩa là những năng lực đặc biệt, mà theo ngôn ngữ ngày nay, một phần trong số đó được gọi đồng nghĩa với ngoại cảm. Sáu phép thần thông được kinh điển đạo Phật mô tả gồm: 1) Thiên nhãn thông tức khả năng nhìn thẩm thấu mà không lệ thuộc vào con mắt thông thường, 2) Thiên nhĩ thông tức năng lực nghe các âm thanh đặc biệt không bị giới hạn bởi không gian vật lý, 3) Thần túc thông tức năng lực khinh thân, độn thổ, thần biến bằng nhiều hình dạng ở nơi này và nơi khác, 4) Tha tâm thông tức năng lực hiểu rõ suy nghĩ thầm kín của người khác, 5) Túc mạng thông tức năng lực biết được đời sống nhân quả quá khứ của bản thân từ đại cương đến chi tiết, và 6) Lậu tận thông tức tuệ giác thấy tất cả phiền não được nhổ tận gốc rễ khỏi tâm thức và đời sống.
Dựa vào học thuyết sáu thần thông vừa nêu, năng lực thấu thị của nhà ngoại cảm chỉ là một phần của thiên nhãn thông, trong khi năng lực thấu thính là một phần của thiên nhĩ thông. Nói cách khác, các nhà ngoại cảm chỉ có được cái nhìn thẩm thấu (thấu thị) về ADN và nghe thẩm thấu (thấu thính) các tần số âm thanh của người chết. Cái nhìn thẩm thấu giúp nhà ngoại cảm có thể nhìn xuyên dưới lòng đất, đoán biết, hoặc chỉ vẽ sơ đồ về thi thể của người cần tìm kiếm ở một nơi rất xa đến hàng trăm cây số mà họ chưa từng đặt chân tới. Các mô tả của nhà ngoại cảm thấu thị thường chính xác đến từng chi tiết, giúp cho người thân tìm được thi thể mất tích đã lâu năm. Năng lực nhìn thấu thị đặc biệt này được các nhà khoa học gọi là con mắt thứ ba, và đạo Phật gọi là Thiên nhãn thông.
Khả năng nghe của con người có thể bắt được các tần sóng âm thanh phù hợp với con người. Ngoài tần số sóng âm của con người, phần lớn ta chỉ có thể nghe hiểu rất giới hạn các sóng âm động vật theo đó gián tiếp biết được cảm xúc và mặc định truyền thông của chúng ở mức độ tương đối. Nhà ngoại cảm có khả năng thấu thính có thể nghe và đối thoại trực tiếp với người cõi âm, do họ có một phần của thiên nhĩ thông.
Các nhà ngoại cảm đặc biệt có thể nắm bắt được tần số tâm thức của vong hồn. Độ chuẩn xác của các nhà ngoại cảm lệ thuộc vào các yếu tố sức khỏe của nhà ngoại cảm, thời tiết lúc tìm kiếm và lòng thành của quyến thuộc người mất. Tuyệt đối, nhà ngoại cảm không sử dụng các phương pháp tư duy thông thường như diễn dịch, loại suy, quy nạp và tổng hợp như người bình thường. Năng lực tâp trung, đời sống tinh thần của nhà ngoại cảm càng cao thì điểm hội tụ trường sinh học càng lớn, giúp cho việc định vị nơi ở của hài cốt được chính xác, và không nhầm lẫn người trùng tên với hương linh. Nhà ngoại cảm không nhất thiết là một hành giả tâm linh, do vậy lại càng không phải là người chứng đắc trong Phật giáo.
Ít có nhà ngoại cảm có cùng lúc hai năng lực thấu thị và thấu thính. Một số nhà ngoại cảm có năng lực nhìn thẩm thấu, nhưng lại không có năng lực nghe thẩm thấu. Do đó, trong những cuộc tìm kiếm hài cốt, nếu có sự phối hợp giữa hai nhà ngoại cảm thấu thị và ngoại cảm thấu thính thì mức độ thành công sẽ cao hơn. Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng có hai năng lực này trong những năm đầu mới phát hiện năng lực đặc biệt này, nhưng nay chỉ còn năng lực thấu thính tốt, nhờ đó, có công tìm kiếm thành công hơn 10.000 hài cốt mất tích tập thể và cá thể.
 Bản chất của thiên nhãn thông giống như thấu kính hội tụ, có chức năng truyền đạt thông tin chính xác hơn mắt thường. Nhà ngoại cảm thấu thị có thể ghi nhận sự kiện như một máy chụp ảnh hay máy quay phim chuẩn xác. Người bị khiếm thị thường có năng lực tập trung tốt hơn người có mắt. Nếu được hướng dẫn và huấn luyện tốt, người khiếm thị có thể phát ra năng lực ngoại cảm tương đối. Họ có thể đi không lạc đường và chạy xe ngoài đường mà vẫn an toàn giao thông.
  2. Bốn loại ngoại cảm
Theo Phật giáo, có bốn hạng ngoại cảm khác nhau. Thứ nhất, nhà ngoại cảm bẩm sinh xuất hiện từ khi con người có mặt trong bụng mẹ. Năng lực ngoại cảm của các nhà ngoại cảm bẩm sinh rất cao, và thời gian tồn tại có thể đến cuối đời. Tại Ấn độ, thời Phật có rất nhiều nhà tiên tri bẩm sinh.
Thứ hai, nhà ngoại cảm sau một biến cố bệnh lý, liên hệ đến những chấn động mạnh, tác động tích cực đến lớp thuỳ mã ở vỏ não. Từ đó, năng lực ngoại cảm được khai thông, nhờ đó, nghe được âm thanh người chết hoặc thấy được trường sinh học của người chết. Các nhà khoa học hiện đại cho biết bộ não con người giống như máy siêu vi tính lượng tử, chứa đựng tối thiểu từ 100 cho đến 200 tỷ nơ-ron thần kinh. Mỗi nơ-ron thần kinh có chức năng duy trì các hạt giống của tri thức, tình cảm, nhận thức của con người. Nó giữ gìn vùng nhớ và nhiều năng lực nhận thức khác nhau. Nghiên cứu cho thấy, các nhà khoa học chỉ mới sử dụng được vài phần rất nhỏ của khối lượng nơ-ron thần kinh, còn người bình thường sử dụng lại càng ít hơn nữa.
Nhà ngoại cảm sau một biến cố chấn động đến lớp vỏ não khiến nó trở nên đặc biệt hơn. Dù cũng là con người như bao con người khác, nhưng năng lực nhìn thẩm thấu, nghe thẩm thấu và truyền thông thẩm thấu của nhà ngoại cảm đặc biệt hơn chúng ta. Năng lực ngoại cảm do biến cố thập tử nhất sinh có thể tồn tại trong 10 năm, 20 năm, 30 năm hoặc có thể suốt đời, tùy theo đời sóng tinh thần của nhà ngoại cảm. Nếu nhà ngoại cảm đó có đời sống tinh thần vững chãi như người xuất gia thì năng lực ngoại cảm này có thể tồn tại suốt cả đời. Theo thuyết tái sinh, ở đời sau họ có thể tiếp tục sở hữu nguồn ngoại cảm này, như dạng ngoại cảm bẩm sinh.
Thứ ba, nhà ngoại cảm do huấn luyện có thể học hỏi được một số năng lực truyền thông, nhưng rất giới hạn. Nhà ngoại cảm loại này có thể cảm nhận được sắc thái con người và dự đoán được người này đang bị bệnh gì, sống thọ ra sao và chết thế nào ở mức độ đơn giản. Nhìn chung, năng lực ngoại cảm này không bằng nhà ngoại cảm bẩm sinh hoặc nhà ngoại biến cố.
Thứ tư, nhà ngoại cảm do tu tập chứng đắc, thường là người đã chứng đắc được các phép thần thông đặc biệt như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông hoặc cả hai. Năng lực ngoại cảm này sẽ không mất đi, cho đến khi người chứng đắc qua đời. Năng lực thần biến này giúp nhà ngoại cảm giúp ích cho nhiều người.
 
    3. Năng lực thấu thính và thấu thị
Nhà ngoại cảm thấu thính có thể nghe được các tần sóng âm cao thấp khác nhau từ thượng giới, trung giới, hạ giới, và giải mã chuẩn xác về nội dung cũng như những gì mà thế giới cõi âm đang gởi gắm cho thân bằng quyến thuộc đang còn sống. Trường sinh học của con người sau khi qua đời không mất hẳn. Nguồn sinh học về sóng âm này lan tỏa ra, và nhà ngoại cảm khi thiết lập được tần sóng âm tương thích với các vong hồn, có thể đọc được tâm trạng và tiếp xúc với các vong hồn này. Khi ấy, vong hồn sẽ gởi gắm thông tin và lời nhắn nhủ đến thân bằng quyến thuộc. Vì đặt trên nền tảng truyền thông âm thanh, nên một số nhà ngoại cảm khó xác định và hỗ trợ được các vong hồn chết trong bụng mẹ, vì lúc chết thai nhi chưa biết nói, nên luồng sóng âm hay trường sinh học đó không rõ rệt. Thiết lập truyền thông với các hương linh thai nhi khó hơn các hương linh lớn.
Nhà ngoại cảm Bích Hằng cho biết, cô đã sử dụng phương pháp vừa đối thoại vừa vấn thoại với hương linh để tìm ra người mà cô có chủ đích tìm kiếm. Thỉnh thoảng, cô cũng tình cờ gặp các vong hồn khác không nằm trong danh sách tìm kiếm. Những cuộc đối thoại hỏi thăm tình cờ được diễn ra. Nhờ tài ăn nói khéo léo và thiện chí muốn đỡ người mất tích, cô tạo được thiện cảm đặc biệt với thế giới cõi âm. Khi tiếp xúc với cô, vì thấy được tình thương của cô đối với người quá cố và thân bằng của họ, nên các hương linh hỗ trợ cô rất đắc lực. Thành công chính của nhà ngoại cảm Bích Hằng là nhờ vào năng lực thấu thính này.
Nhờ năng lực thấu thị, nhà ngoại cảm có thể nhìn thấy rõ hình thù, vóc dáng của người quá cố, cho dù hương linh đã qua đời vài mươi năm, xương đã tan rã không còn gì để nhận dạng. Năng lực nhìn thẩm thấu này với sự tập trung cao độ có thể giúp nhà ngoại cảm hình dung được trường sinh học của vong linh, và thông qua đó xác định được phương vị của vong linh hiện đang nằm chỗ nào. Nếu có sự phối hợp đặc biệt giữa nhà ngoại cảm có năng lực nhìn thẩm thấu và nhà ngoại cảm có năng lực nghe thẩm thấu thì kết quả của những cuộc tìm kiếm cao gấp nhiều lần so với những nỗ lực rời rạc, đơn lẻ.
 
  4. Trường sinh học của hương linh
Sự hội tụ của trường sinh học là cơ sở dữ liệu quan trọng để nhà ngoại cảm giải mã và cảm nhận chính xác đối tượng mà họ đang tìm kiếm. Cho dù hương linh đã qua đời lúc 30 tuổi hoặc 100 tuổi thì điểm hội tụ trường sinh học tỏa ra cũng giống hệt như trước khi họ qua đời. Ví dụ một bé gái chết lúc 3 tuổi thì nhà ngoại cảm sẽ cảm nhận được hình thù của vong hồn đó dựa theo trường sinh học trước khi chết. Một người 30 tuổi, dù đã chết 100 năm thì nhà ngoại cảm vẫn cảm nhận được người này dưới hình thù 30 tuổi. Có thể nói, yếu tố trường sinh học giúp cho nhà ngoại cảm xác định thành công thi thể và hài cốt của hương linh này mà không bị lẫn lộn với hương linh khác.
Thế giới của hương linh không phải là âm phủ dưới lòng đất. Để dễ hình dung về “cõi sống” của hương linh, ta có thể khẳng định rằng cảnh giới sống của họ không có ranh giới giữa các quốc gia. Các hương linh, dù xuất thân từ nhiều quốc gia, màu da, nam nữ khác nhau, khi qua đời, nếu do chấp trước mà chưa đầu thai thì họ chỉ có tâm thức mà không có thân thể. Thế giới vật chất đối với họ chỉ là tâm tưởng được hình thành bởi những gì quan trọng và ấn tượng nhất trong cuộc đời. Khi qua đời những ấn tượng đó vẫn còn lưu giữ trong tâm thức họ, tạo ra trường sinh học. Nhờ vào sự hội tụ của trường sinh học mà nhà ngoại cảm có thể tiếp nhận và thấy được vong hồn với vóc dáng giống như lúc còn sống.
Tại sao có những hiện tượng thân bằng quyến thuộc chưa siêu thoát trở về nhà báo mộng, chẳng hạn hương linh già yêu cầu con cháu nên cúng vàng mã gởi xuống cho họ? Theo Phật giáo, sở dĩ có hiện tượng trên là do khi còn sống các vong hồn này từng có những quan niệm sai lầm về cõi âm. Họ nghĩ rằng cõi âm là cõi tồn tại vĩnh hằng, còn cõi dương chỉ vài mươi năm là hết, theo cách nói:“Sanh ký, tử quy” tức“sống gởi, thác về”.
Kim tự tháp nguy nga tráng lệ của các vị vua Ai Cập cũng phát xuất từ quan niệm sai lầm về hai cảnh giới cõi âm vĩnh hằng này. Vì vậy mà họ đầu tư rất nhiều cho thế giới chết; thậm chí họ chôn theo cả người thân, người thương, gia tài, của cải, châu báu xuống dưới cõi âm để tiếp tục hưởng thụ. Người Trung Hoa đã có những cải biên tích cực. Thay vì chôn người và của cải châu báu thật thì họ thay thế bằng hình nộm, nhà và tiền vàng mã, theo đó, gởi gắm tình thương cho người quá cố.
Trong nền văn hóa châu Á, chăm sóc cho người quá cố đôi lúc được hiểu đồng nghĩa mang lại hạnh phúc cho những người sống ở dương thế. Mối quan hệ tình thân, tình thương giữa người sống và kẻ chết không kết thúc khi một người nhắm mắt lìa đời, mà tiếp tục đến vài mươi năm hoặc vài kiếp sau nữa. Chính vì vậy, ảo giác sai và mê tín khi còn sống ảnh hưởng các hương linh chưa siêu thoát. Người không tin có đời sau cho rằng sau khi chết con người không còn gì, hình hài sắc thân trở về với cát bụi, thần thức gồm cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức sẽ không còn điều kiện để tồn tại. Vì vậy, sau khi qua đời, một số không tái sinh, vì quan niệm rằng chết là dấu chấm cuối cùng của đời sống.
Có nhiều người suốt đời làm việc thiện, hy sinh cho quê hương xã tắc, khi chết vì tiếc nuối, hận thù, oan ức mà khó siêu thoát được. Các ách tắc, trở ngại trong tiến trình tái sinh đều ít nhiều liên hệ đến nhân sinh quan khi còn sống. Bởi phần lớn con người khi chết đều chưa chấp nhận cái chết diễn ra với mình là một sự thật. Trạng thái tiếc nuối đó tạo ra tâm lý sợ hãi. Khi tiếp xúc với thân nhân của người mất, ai cũng khổ đau cùng cực với những giọt nước mắt sầu thương, mong mỏi cuộc sống này có thể kéo dài thêm một vài năm nữa, ấy thế mà cái chết đã đến với người thân quá sớm, như một sự thật phủ phàng. Một số hương linh không siêu thoát được cũng do bám chấp vào quan niệm tiếc nuối sự sống và quyến luyến người thân.
Phủ nhận cái chết diễn ra như một sự thật, các hương hồn vất vưởng bơ vơ, nay đây mai đó, trở thành“hồn đơn phách chiếc”. Đối với các hương linh dạng này, công tác tìm kiếm qua vấn thoại của nhà ngoại cảm gặp nhiều khó khăn. Tâm lý của con người khi sống như thế nào thì lúc qua đời, nếu chưa đầu thai, sẽ biểu hiện tương tự, tính khí lúc chết cũng giống như lúc còn sống. Ví dụ lúc còn sống, chàng thanh niên nọ là một người hài hước thì khi qua đời, nếu chưa siêu, hương linh này cũng có tính hài hước không kém lúc sống. Nếu còn sống là người cau có, khó chịu, dễ hờn dỗi, tự ái, mặc cảm, sĩ diện thì khi qua đời mà chưa đầu thai, các trạng thái tâm lý đó vẫn được bảo lưu tương đối. Nếu hương linh do giận dỗi không muốn gặp người thân thì nhà ngoại cảm khó phát hiện ra thi thể họ đang ở đâu, do đó việc tìm kiếm thường bị thất bại.
 Nhà ngoại cảm Bích Hằng cho biết phần lớn các tình huống bị thất bại trong tìm kiếm, ngoài các yếu tố thời tiết còn do hương linh không sẵn sàng chấp nhận gặp gỡ người thân. Khi hương linh cố tình lẩn tránh, trường sinh học của họ trở nên mờ ảo, khi tồn tại chỗ này, khi hiện hữu chỗ khác, khó có thể nhận dạng được phương vị của họ đang ở vị trí nào.
Có những tình huống, thi thể của hương linh tan tác hoặc bị mục rữa không còn gì, việc tìm kiếm bằng thấu thị cũng gặp nhiều khó khăn. Bản chất của hương linh thường bám víu vào nơi cái chết diễn ra, chẳng hạn như trong chiến tranh, hương linh bị chết ở chiến trường thường xem nơi đó là cảnh giới sống của họ. Khi cốt được chôn dưới lòng đất, một số hương linh cố bám vào chỗ cái chết, nên ít khi lẫn quẫn nơi chôn cất, do đó khi tìm kiếm khó nhận ra được đang nằm ở đâu. Hoặc khi tro cốt được đưa về một nơi nào đó để thờ tự, do bản chất quyến luyến, không chấp nhận cái chết, một số hương linh có thói quen chầu trực địa điểm cái chết nên cũng khó tìm. Đối với các hương linh đã siêu thoát thì việc tìm kiếm hài cốt của họ lại càng khó hơn nữa, vì tâm thức của họ đang tồn tại trong một hữu thể sự sống khác, không thể truyền thông được và nhà ngoại cảm cũng không thể thiết lập truyền thông được. Nếu không có các hương linh khác chỉ điểm trong các cuộc vấn thoại của nhà ngoại cảm thì việc tìm kiếm đó được xem là không thành công. Những cuộc tìm kiếm của nhà ngoại cảm, đôi lúc thành công, nhưng đôi lúc cũng bị thất bại là do các yếu tố này.
  5. Hỗ trợ hương linh sớm tái sinh
Theo Phật giáo, sự sống và cái chết chỉ là một dấu chấm trên một đường thẳng dài được kết nối bằng hàng triệu, hàng nghìn các dấu chấm. Mỗi một đời sanh và tử gồm mấy mươi năm chỉ là một dấu chấm. Do đó, quan niệm chết là dấu chấm cuối cùng là một sai lầm trên nguyên tắc. Nhờ niềm tin vào tái sinh nên sau khi qua đời, người chết hướng tâm vào việc tái sinh theo nghiệp, từ bỏ được quan niệm tiếc nuối, chấp trước, nhất là tình cảm giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, tình thân hữu, nghĩa tri kỷ, tình đồng bào v.v… Tất cả sợi dây tình cảm quyến luyến đó đối với người sống có giá trị chừng nào thì đối với cõi âm đều là sợi dây xích, làm cho người chết bị vướng mắc trong cảnh giới ngạ quỷ, thay vì tái sinh làm người theo nghiệp.
Thể hiện tình cảm thương yêu nhiều chừng nào thì sự trói buộc trong tiến trình sinh tử sẽ diễn ra nhiều chừng đó. Mỗi giọt nước mắt, dòng cảm xúc sầu khổ, đau thương, hoặc mỗi sự quyến luyến, bịn rịn của những người còn sống đều có thể khiến cho người quá cố động lòng trắc ẩn nên khó siêu thoát. Là người có tinh thần trách nhiệm, là trụ cột kinh tế của gia đình, một số hương linh vướng mắc sẽ không an tâm mà tái sinh. Qui luật tâm lý lúc còn sống ảnh hưởng nhiều đối với hương linh sau khi qua đời. Do đó, để có tiến trình tái sinh tốt thì thân bằng quyến thuộc cần hỗ trợ hương linh một cách đắc lực.
Hỗ trợ quan trọng nhất cho hương linh chưa siêu là giúp hương linh tháo gỡ được sự chấp trước về cái tôi. Theo quan điểm Phật giáo, cái tôi được hình thành bởi năm tổ hợp: hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm tư và nhận thức. Khi qua đời, năm tổ hợp đó chỉ còn hai, đó là thi thể và tâm thức. Thi thể và tâm thức bắt đầu bị tách ly vĩnh viễn. Khi bị mục rữa, thi thể dần dần trở về với đất, nước, lửa và gió. Tâm thức của một số người chết cố níu kéo thi thể, nên bị vướng kẹt trong cảnh giới ma quỷ. Tùy theo sự buông xả hay chấp mắc, có người qua đời chỉ vài giây sau là đi tái sanh, nhưng cũng có người phải mất đến mấy mươi năm, hoặc thậm chí là vài thế kỷ vẫn chưa thể siêu sinh do chấp mắc.
Do bởi hương linh còn tiếc nuối về cảm xúc, tình yêu, gia tài, sự nghiệp, công trình, dự án, tinh thần trách nhiệm nên không thể an tâm mà đi. Trong các cuộc chiến, dù đứng từ bất kỳ góc độ nào, ý thức hệ chính trị nào thì các hương linh sau khi qua đời đều là nạn nhân của sự chấp trước và hận thù. Sự chấp trước này sẽ làm cho thời gian tồn tại trong cõi ngạ quỷ bị kéo dài, khổ đau ngày càng lớn. Ngạ là đói khát, đói về vật thực, cảm xúc, tình thương, cuộc sống và tất cả những gì họ từng có trong cuộc đời, trong suốt chiều dài của tiến trình sanh và tử.
Sự đói khát về mọi phương diện khiến họ trở thành các cô hồn vất vưởng trong thương đau. Trong các ngôi chùa của Phật giáo Bắc tông, cứ 4 giờ chiều mỗi ngày, lễ cúng cô hồn thường diễn ra trong nghi thức với sự quán tưởng và hành trì trang nghiêm. Sự quán tưởng và hành trì giúp cho người hành trì thiết lập được tần số tâm thức có thể giao tiếp được với trường sinh học của hương linh. Khi hương linh tiếp nhận được tần số tương đương sẽ nghe được lời kinh tiếng kệ, cảm nhận được tấm lòng của người còn sống và đặc biệt là lời khuyên của các tu sĩ, nương theo Phật pháp nhiệm màu, rũ bỏ sự chấp trước về cảm xúc, thi thể, nhà cửa và mọi thứ, từ đó mới chính thức tái sinh làm người trong một gia đình nào đó có mẫu số chung của nghiệp với cha mẹ sau này.
 Từ hàng ngàn năm qua, trong các ngôi chùa Phật giáo Bắc tông có nghi thức trai đàn chẩn tế, mang ý nghĩa trị liệu và chuyển hóa rất lớn. Lễ trai đàn thường được tổ chức trong khuôn viên ngôi chùa, nơi mà vùng từ trường của lòng từ bi và trị liệu luôn tỏa ra xung quanh, giúp các hương linh hội tụ về để siêu thoát. Trong cuộc chiến, các vong hồn có thể là kẻ thù của nhau. Trong lễ trai đàn, nhờ ảnh hưởng của vùng từ trường tâm linh và lòng từ bi mà họ trở thành người thân, giải tỏa được bế tắc và thù hận lẫn nhau trong đời. Nhờ đó, cơ hội giải phóng kiếp cô hồn, ngạ quỷ dưới cõi âm cũng dễ dàng thực hiện.
Việt Nam với diện tích 320.000 km, có trên ba triệu người đã chết trong chiến tranh, trong số đó có khoảng một triệu lính miền Bắc mà hiện vẫn còn một nửa chưa tìm được hài cốt. Nếu làm một bài toán thì cứ trung bình một mét vuông có đến mười hài cốt. Các nhà ngoại cảm tại Việt Nam dù số lượng hơn 100 vị và được xem là số lượng lớn, nhưng vẫn không thể giúp hết cho các hương hồn có cơ hội đoàn tụ với gia đình. Ngoài ra, trên hành tinh này vẫn còn hàng triệu triệu sinh linh khác đã nằm xuống từng ngày, từng giờ, từng phút và từng giây. Nỗ lực và đóng góp của các nhà ngoại cảm rất cần thiết. Nếu có sự phối hợp giữa nhà ngoại cảm và nhà tâm linh Phật giáo, tôi tin rằng ngoài việc giúp người sống tìm được thi thể người quá cố, các hương linh còn được hướng dẫn thực tập vô ngã, sớm được siêu sinh thoát hóa. Đây là điều đồng nghĩa với việc mang an vui và hạnh phúc cho cõi dương, nhất là thân bằng quyến thuộc của người đang còn sống.
 
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ
Đại đức Nhật Từ tốt nghiệp tiến sĩ Triết học tại Ấn Độ năm 2001, hiện đang đảm trách các vai trò Phó Viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM, Phó Ban Phật giáo Quốc tế GHPGVN, Phó Ban Hoằng pháp TP.HCM, Chủ biên tạp chí Đạo Phật Ngày Nay, Trụ trì Chùa Giác Ngộ. Đại đức nguyên là Tổng thư ký Đại lễ Phật đản LHQ 2008 tại Việt Nam. Đại đức là tác giả của trên 30 tác phẩm Phật học, biên tập và xuất bản Đại Tạng Kinh Việt Nam MP3 và hơn 100 đầu sách Phật giáo, trên 60 album nhạc Phật và thuyết giảng trên 2000 VCD về nhiều đề tài khác nhau. Đại đức còn là nhà hoạt động từ thiện, thuyết giảng cho nhiều Trung tâm bảo trợ xã hội, trại giam K20 (Bến Tre) và trại giam Sơn Phú 4 (Thái Nguyên).
 
 
   
NHẬN THỨC VỀ TÂM LINH
                            PGS.TS NGUYỄN ĐÌNH PHƯ
               Trung tâm Nghiên cỨu và Ứng dỤng
                     
Năng lưƠng Sinh hỌc – CBE
 
Nhận thức của CON NGƯỜI về thế giới xung quanh là nền tảng của các nền Văn minh Nhân loại. Nhận thức có thể quyết định hình thái kinh tế xã hội, quyết định lối ứng xử văn hóa với tự nhiên và xã hội cũng như hình thành đạo đức, lối sống của mỗi con người. Nhận thức có thể là động lực phát triển xã hội hoặc cũng có thể là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển trên nhiều bình diện: Khoa học, Chính trị, Kinh tế, Văn hóa và Văn minh Xã hội nói chung.
 Cho đến thể kỷ XIV, nhận thức của Nhân loại được thể hiện trong hai mảng lớn: Triết học Tôn giáo. Từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII hình thành Khoa học Thực nghiệm (Experimental Sciences). Suốt thế kỷ XX, đặc biệt ở cuối thế kỷ XX Khoa học Thực nghiệm đã đạt được rất nhiều thành tựu và đã đưa nhân loại đến sự phát triển văn minh tột bậc.
Tuy nhiên, tồn tại rất nhiều quy luật, nhiều hiện tượng mà cơ sở Khoa học Thực nghiệm chưa thể lý giải. Các hiện tượng, các quy luật loại này có nhiều cách tiếp cận và cũng được gọi với nhiều tên khác nhau: Thế giới Tâm linh, Thế giới Cận tâm lý,… Trên quan điểm Khoa học, rất nhiều nhà nghiên cứu trên Thế giới đã bước đầu giới thiệu chúng như là một phần của một ngành khoa học mới: Khoa học Sự sống (Life Sciences).
Trong thời đại văn minh, với sự phát triển như vũ bão của Khoa học, vấn đề Tâm linh phải hiểu như thế nào và nó có ý nghĩa gì với đời sống xã hội Việt Nam nói riêng và Toàn nhân loại nói chung? Trong khuôn khổ Báo cáo tại Hội thảo khoa học: TÂM LINH VÀ CUỘC SỐNG này, chúng tôi muốn giới thiệu các vấn đề chính:
1.    Vấn đề về Nhận thức Tâm Linh;
2.    Một số giả thuyết giải thích Thế giới Tâm Linh
3.    Sự khác biệt giữa Khoa học Thực nghiệm và Khoa học Sự sống?
4.    Tiếp cận và ứng dụng Khoa học Sự sống như thế nào để có ích cho Con người?
 
I.  CON NGƯỜI VÀ NHẬN THỨC TÂM LINH
A.   CON NGƯỜI VỚI NHỮNG KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT
Con người là một sinh vật đặc biệt, có cấu trúc tinh vi hoàn chỉnh, biết học hỏi qua nhận thức, biết tư duy và sáng tạo, hơn tất cả - con người còn biết thể hiện tình cảm yêu thương, giận hờn,v.v. một cách đa dạng, nhiều chiều, nhiều cấp độ: Con người có nhiều khả năng mà các loài sinh vật khác không có hoặc có nhưng không thể bằng con người, đó là:
 
1. Nghe được
Con người thường nghe được các sóng âm thanh trong khoảng 25Hz đến 25.000Hz. Có những người đặc biệt họ nghe được những âm thanh “siêu âm” như con dơi, hoặc “cao tần” – những cung bậc cao thấp khác nhau mà nhiều người thì “ điếc”.
 
2. Nhìn thấy
Các sóng năng lượng với bước sóng từ 0 đến 100micro mét đều được gọi là ánh sáng. Bình thường chúng ta nhìn thấy dải ánh sáng từ 0,38-0,78 micro mét, nghĩa là, nếu chia đều khoảng cách bước sóng thì có tới 250 ảnh mà chúng ta chỉ nhìn thấy 01 hình. Nhiều người có thể nhìn thấy hình ảnh khác với chúng ta. Đó là một thực tiễn.
3. Giấc mơ
Các sóng năng lượng của thế giới quanh ta xâm nhập vào mỗi người tuy theo mức độ rất khác nhau. Có khi không là âm thanh, không là hình ảnh thật mà là những giấc mơ, ác mộng báo trước trong tiềm thức và trong giấc ngủ.
4. Cảm nhận được
Cũng giống như loài vật, chúng ta cũng có linh tính mách bảo, nghe âm thanh lạ, nhìn thấy hình ảnh lạ và bắt đầu cảm nhận các dạng thông tin mờ.
5. Suy luận
Quan sát, nghe và uy luận là khả năng mà chúng ta hơn các loài vật khác. Có suy luận dạng logic mờ, lưu thông tin để nghiền ngẫm,…
6.   Bắt chước
Đó là hành động tư duy, suy nghĩ và bắt chước từ việc học được, dạy được và làm theo được. Bắt chước là hành động lặp lại thông tin thu được.
7. Sáng tạo
Bắt chước, làm theo thì một vài loài vật như khỉ, chó, cá heo,… cũng có khả năng. Con người không những biết làm theo, bắt chước mà còn biết tư duy sáng tạo. Vì thế tính sáng tạo, phát minh của con người là khả năng mà không loài vật nào có nổi. Từ chổ nghe, quan sát học hỏi,… con người sáng tạo nên nhiều thành quả trong sự phát tiển văn minh của mình: Nghệ thuật, Khoa học, Kỹ thuật,…
8.    Bản lĩnh và nhân cách
Mỗi con người luôn có nhân cách sống và có trách nhiệm với hành vi ứng xử nên chúng mang tính chất bản lĩnh của người đó. Tính nhân bản cần được giáo dục, bồi dưỡng và hướng dẫn để những bản năng ít đi, để những bản tính tốt của con người được phát huy cao nhất.
9.       Biểu hiện tình cảm
Mỗi con người có bảy loại tình cảm: yêu thương - thù hận, vui vẻ - buồn, …, cho tới dục vọng ham muốn… Có thể nói rằng khả năng biểu hiện tình cảm của con người là cơ sở cho những ngành khoa học rất ‘ mơ hồ’ – khoa học tâm lý. Tình cảm cũng rất đa dạng và có sức mạnh , nhiều khi còn hơn cả sức mạnh vật chất.
       10.   Đức tin và Tâm linh
Đó là mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình, giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, giữa cái trần tục và cái thánh thiện. Đó là nghịch lý giữa CON và NGƯỜI trong mỗi chúng ta. Đức tin và tâm linh là nhận thức cao siêu mà chẳng có loài vật nào có được. Từ xa xưa, con người đã tạo cho mình đức tin để tồn tại với tư cách một thành viên trong Trời Đất. Socrate đã từng nói: "Cuộc sống là chung cho mọi thứ, kể cả một cây cỏ nhưng chỉ con người mới có linh hồn. Con người sở dĩ thành được con người một phần căn bản là do nó có đời sông tâm linh, nghĩa là tuân theo, tôn thờ những giá trị không vụ lơi, những giá trị bắt nguồn từ cái linh thiêng và cái bí ẩn, hai yếu tố tạo thành đời sống tâm linh".
Đức tin và tâm linh có tác dụng giáo dục tính nhân bản, hướng thiện cho mỗi con người. Mỗi người sống không chỉ vì kiếp này của mình mà còn hướng tới những hậu quả sau khi chết,… về tính nhân quả mang lại đối với những người cùng huyết thống.
 
 
B.   NHẬN THỨC TÂM LINH
Sau nhiều năm tiếp cận, nghiên cứu, cộng tác với rất nhiều người có khả năng giao tiếp với THẾ GIỚI TÂM LINH, bằng các trải nghiệm thực tiễn, cũng như bằng kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, chúng tôi đã ghi nhận hàng ngàn trang tư liệu một cách trung thực, khách quan và khoa học.
 
Nhiều nhà xuất bản cũng đã lần lượt chocác ấn phẩm dạng sách, ví dụ:
 
1/    CÒN MÃI MỘT TÌNH THƯƠNG
2/    CHUYỆN LẠ CÓ THẬT VỀ MỘT CON NGƯỜI
3/    TIỀN KIẾP CÓ HAY KHÔNG?
4/    HIỆN TƯỢNG NGOẠI CẢM- HIỆN THỰC VÀ LÝ GIẢI,…  
 
Gần đây nhất, ngày 12-13/08/2010 hàng ngàn người đã chứng kiện các hiện tượng TÂM LINH: Tại Đại lễ cầu siêu các chư vị vong linh vùng mỏ sắt Thạch Khê - Hà Tĩnh. Trên vùng đất 06 xã biển ngang có mỏ sắt chỉ cách mặt đất 7-8m, sắt gần như lộ thiên. Nhưng vùng này, xưa kia là bãi chiến trường thời nhà Hồ, hơn nữa, gần ngàn năm nay biết bao nhiêu thế hệ con người đã sống và an nghỉ tại đây. Vì vậy Đại lễ cầu siêu vong linh chư vị là cần thiết. Tham gia lễ cầu siêu có rất nhiều người con vùng mỏ. Phái đoàn của Phật giáo từ thành phố Huế ra làm lễ , có Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Việt Nam từ Hà Nội vào. Gần đến buổi lễ, trời bỗng chuyển mưa, mây đen kịt và rồi mưa, mưa… nhưng thật lạ, trên Đàn Tế Lễ không hề có một giọt nước mưa nào. Sau khi khai lễ, mọi người chứng kiến một hiện tương kỳ lạ: hoa xương rồng nở trắng xóa quanh Đàn Tế Lễ. Lễ cầu siêu kéo dài hai ngày và một đêm. Buổi chiều kết thúc, Hòa Thượng làm lễ và đọc kinh gần 03 tiếng đồng hồ. Chỉ còn mươi phút nữa thì kết thúc, nhưng bỗng xuất hiện cơn lốc rất mạnh. Và cơn lốc chỉ lướt qua Đàn Tế Lễ, cuốn bay lên trời tất cả phông màn,… Cả ngàn con người không ai việc gì khi các cây xà sập xuống, Nhà Sư vẫn đọc kinh,.. duy chỉ có một người bị chảy máu mà theo nhiều người nói lại rằng vì anh ta không đàng hoàng nhiều việc.
    
 
… Hoặc việc tìm hài cốt Liệt sĩ thất lạc của một số nhà ngoại cảm bằng một kênh thông tin mới: Không phải người sống đi tìm thân nhân đã chết mà là những thông tin của liệt sĩ như quê quán, ngày hy sinh, nơi an táng hiện nay,… và cần liên hệ với người còn sống như địa chỉ, số điện thoại…do người chết cung cấp.
Sau nhiều năm tiếp cận, nghiên cứu, cộng tác với rất nhiều người có khả năng giao tiếp với THẾ GIỚI TÂM LINH, bằng các trải nghiệm thực tiễn, cũng như bằng kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, chúng tôi tạm đúc kết các dạng thông tin:
 
1.    Thông tin dạng linh cảm, linh tính.
a. Trước một con người, trước sự vật, sự kiện chúng ta linh cảm có một điều gì đó sẽ xẩy ra. Cảm giác là mơ hồ, nhưng nó thật sự xẩy ra sau khi đã trải nghiệm. 
b. Trước một con người, trước sự vật, sự kiện chúng ta biết chắc chắn có một điều gì đó sẽ xẩy ra. Cảm giác khá rõ ràng và rồi nó thật sự xẩy ra.
2. Thông tin dạng báo mộng.
a. Thông tin về sự cố sẽ xảy ra được chúng ta nhìn thấy trong giấc ngủ đầy mộng mị. Giấc mơ có vẻ không thật, nhiều khi là ác mộng làm cho người chiêm bao lo lắng.
b. Thông tin về sự cố sẽ xảy ra được chúng ta nhìn thấy khi chuẩn bị ngủ. Hình ảnh nhìn thấy được, lời nói nghe thấy được khi bắt đầu thiêm thiếp ( Xem [1]).
 Các thông tin này có thể đến sớm ngay sau đó, đôi khi sẽ xuất hiện trễ đến 03 tháng, thậm chí sẽ xảy ra sau 18-24 tháng.
3. Thông tin dạng âm thanh
a. Thông tin là lời nói mơ hồ: Âm thanh xuất hiện, cảm nhận lời nói chưa rõ ràng.
b. Thông tin là lời nói rõ ràng mang tính địa phương, lời nói thường mang tính giáo huấn, truyền đạt những vấn đề lớn liên quan đến một nhóm cộng đồng, như các bài Kinh, bài Kệ. Thông tin loại này thường được gọi bằng thuật ngữ : Hướng Đạo.
4.    Thông tin qua con vật.
a. Thông tin nhờ các con vật như bướm, chuồn chuồn, các loại côn trùng. ( Xem [1]).
b. Thông tin nhờ các con vật như chó, chuột,… các loại vật 4 chân( Xem [1]).
5.   Thông tin qua người khác.
a. Thông tin thông qua người khác, như các vết, bớt ( Xem [3]), lên đồng, cầu vong,…
b. Thông tin nhờ người khác: nhà ngoại cảm, người thân cùng huyết thống ( Xem [1]).
6. Thông tin dạng hình ảnh.
a. Hiện hình dưới nhiều dạng khác nhau: con vật hình ảnh kỳ quái.
b. Hiện hình dưới dạng ảnh của người quá cố.
Mỗi một loại thông tin được nhận dạng rất khác nhau thông qua các đối tượng khác nhau. Những nghiên cứu chi tiết bằng khảo cưu thực tiễn và lý luận về các dạng thông tin này, xin phép được trình bày trong những diễn đàn khác vì tính phức tạp và số lượng mà chúng tôi đã thu thập được. Ví dụ, xin đọc một vài tài liệu về vấn đề này (Xem [ 1], [2] sách đã dẫn).
 
II.            MỘT SỐ GIẢ THUYẾT VỀ TÂM LINH
Từ xa xưa đến nay, mỗi một loại thông tin được nhận dạng và được con người gọi nó dưới những tên gọi khác nhau:
1.    Về sự tồn tại một Thế giới song song - Thế giới Tâm Linh ( Vong, Hồn,…., Ma , Quỷ, Thần, Thánh,… ).
a. Bên cạnh con người đang sống có tồn tại một thế giới “ vô hình” khác, đó là Phách. Vía, Hồn. Thế giới này tồn tại một cách vĩnh hằng, thánh thiện và linh thiêng.
b. Khi con người chết sẽ có các dạng linh hồn khác nhau từ thấp- cõi dưới: Âm hồn, Vong, Âm căn và lên cao – cõi trên: Linh căn, Linh điển và Linh thể.
Những thế giới này cũng đươc phân loại và chúng có chưc năng phong phú tựa như trong đời sống của con người.
Linh hồn thực ra là gì? – Có thể tạm hiểu, đó là năng lượng gắn liền với chủ nhân của nó. Khi cơ thể vật chất ngưng hoạt động thì cơ thể năng lượng mang thông tin vẫn tồn tại và nó là thế giới vật chất song song – Thế giới Tâm linh.
c. Linh hồn – Thế giơi vật chất này tổn tại, biến đổi và được thăng hoa y như lịch sử phát triển một con người: từ Vong đến Thần linh. Linh hồn có thể đạt đến ngưỡng siêu thoát lên Niết bàn ( Đạo Phật) hoặc Thiên đường ( Ki Tô giáo),…
2.    Phủ nhận về sự tồn tại một Thế giới song song -Thế giới Tâm Linh
 a. Quan điểm phủ nhận thế giới Tâm linh dựa vào những nhận thức duy vật. Cái gì nhìn thấy – hữu hình thì công nhận tồn tại. Cái gì không thấy – siêu hình thì phủ nhận.
b. Quan điểm phủ nhận thế giới Tâm linh dựa vào tính lặp lại, bắt chước được các quy luật của Khoa học thực nghiệm.
a. Những hiện tượng, những quy luật mà Khoa học thực nghiệm chưa giải thích được vẫn luôn tồn tại quanh chúng ta. Không thể phủ nhận sự thật khách quan,chỉ vì sự thiếu hiểu biết hoặc do quá bảo thủ. Tên gọi thế giới Tâm linh như thế nào là do nhận thức của con người tùy thuộc thời gian, tùy thuộc trình độ hiểu biết.
b. Sự công nhận thế giới Tâm linh không có nghĩa là “lạc hậu” hay do “phản động”,v.v.. Cần phải bổ sung những nhận thức mới đối với các quy luật, các hiện tượng đã và đang tồn tại nằm ngoài nhận thức cũ. Trong một xã hội hiện đại, quan điểm về vật chất, về ganh đua trong mọi lĩnh vực sẽ dẫn con người tới những ứng xử thiếu văn hóa, thân thể dễ mang bệnh tật,… Nếu nhận thức đúng đắn thế giới Tâm linh, biết ứng dụng có ích cho cuộc sống thì chỉ có lợi cho xã hội: Phát triển tính nhân bản làm người, hướng thiện, giáo dục các thành viên trong xã hội sống thánh thiện hơn, ứng xủ văn minh hơn,…
Phàm là cái gì, việc gì ,… tồn tại trong Vũ Trụ này cũng luôn mang hai mặt của nó: TỐT đi với XẤU, cho nên chúng ta không sợ Mặt xấu mà vấn đề nằm ở chỗ khắc phục Mặt XẤU như thế nào để có thể TỐT HƠN.
4. Về sự hình thành một nền khoa học mới - Nhận thức mới về Thế giới Tâm Linh
 a. Nhận thức trong các quy luật của Khoa học thực nghiệm chưa giải thích được, thậm chí mãi mãi không thể giải thích thế giới Tâm linh. 
b. Cần thiết phải nhận thức về TÂM LINH một cách khách quan và luôn phải tôn trọng sự thật.
 
III.        KHOA HỌC SỰ SỐNG – MỘT NHẬN THỨC MỚI ĐỐI VỚI CON NGƯỜI
Năm 1988, Tổ chức Văn hoá - Khoa học và Giáo dục UNESCO của Liên Hiệp Quốc đã đưa môn học mới: Khoa học Sự sống vào danh mục các ngành đào tạo ở bậc đại học cho tất cả các nước trên thế giới. Mã số của ngành này là 24.00 trong đó ví dụ:
1.    Hóa sinh học (Chemical Biology): 24.03
2.    Toán sinh học (Mathematical Biology): 24.04
3.    Vật lý sinh học (Physical Biology): 24.06
4.    Sinh học con người (Human Biology): 24.10
5.    Các lĩnh vực khác của khoa học sự sống: 24.99
6.     (The other Fields of Life Sciences).
Năm 1994, Viện Nghiên cứu các Khoa học Hiện đại (ASI) của khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) cũng xây dựng chín lĩnh vực mũi nhọn của thế kỷ XXI, trong đó Khoa học Sự sống nằm ở vị trí số 1.
Nếu để ý, chúng ta cũng thấy các giải thưởng Nobel trong những năm gần đây được trao cho các lĩnh vực Khoa học sự sống là liên tục (năm 1997 – Cấu trúc năng lượng ATP ở tế bào, năm 1998 – Cấu trúc thông tin ở tế bào,v.v..).
1. Đối tượng nghiên cứu.
Mỗi khoa học đều có đối tượng nghiên cứu riêng.
a. Khoa học Thực nghiệm có đối tượng nghiên cứu là vật chất: gồm cấu trúc và vận động của vật chất.
b. Khoa học Sự sống có đối tượng là vật chất sống, gồm tế bào, sinh thái và vận động của các quy luật sống.
Hai đối tượng đó:
¨ Giống nhau : Đều là vật chất và có thể chuyển hóa thành năng lượng (VC ® NL), ngược lại Năng lượng có thể chuyển hóa thành vật chất (NL ® VC), nghĩa là vật chất và năng lượng có thể chuyển hóa cho nhau: VC Û NL
¨ Khác nhau : Vật chất nói chung (vô sinh) có cấu trúc từ các hạt cơ bản, điện tử, hạt nhân, nguyên tử, phân tử, cao phân tử (Polymer). Vật chất sống (hữu sinh) phải có cấu trúc cấp độ tế bào (gồm nhiều đại phân tử với 50 axit amin) lớn gấp nhiều lần vật chất vô sinh (cấp đại phân tử).
a.Tế bào: Tế bào có 9 kiểu biểu hiện sống (trao đổi chất, hô hấp, … sinh sản) mà vật chất vô sinh không có được. Tế bào là cội nguồn của sự sống. Cấu trúc vật chất càng phức tạp thì càng có nhiều hoạt tính –biểu hiện sống. Như vậy chỉ có vật chất ở cấp độ Tế bào mới là vật chất sống.
b.Thông tin: Vật chất vô sinh không mang thông tin (trừ trường hợp con người đã cài đặt), trong khi đó sự sống luôn mang ba dạng thông tin: Thông tin Cội nguồn, Thông tin Nội tại và Thông tin Môi trường. Thông tin quyết định sự tồn tại, phát triển và tiến hóa ở sinh vật.
c. Năng lượng: Vật chất vô sinh hấp thụ năng lượng thì dẫn đến thay đổi cấu trúc và bị huỷ diệt; Còn vật chất sống thu năng lượng để đảm bảo tồn tại, tăng trưởng, hoạt động,...Năng lượng là động lực của sự tồn tại hoạt động và phát triển của sự sống.
Vật chất sống tuân thủ bốn quy luật khắc nghiệt: Sinh- Bệnh- Lão- Tử mà vật chất vô sinh không hề có.
 
2. Quy luật vận động.
a. Các quy luật vận động của Khoa học Thực nghiệm xảy ra độc lập, khách quan đối với tư duy nhà nghiên cứu. Con người không tham gia vào các quá trình vận động của vật chất.
b. Còn các quy luật vận động trong Khoa học Sự sống lại bị chi phối bởi tư duy, ý tưởng của nhà nghiên cứu. Con người có thể quyết định sự vận động của các quá trình tồn tại, sinh trưởng của vật chất sống.
Quy luật của sự sống phức tạp, đa dạng, nhiều chiều, nhiều cấp độ khác nhau và vật chất vô sinh hoàn toàn không có được.
3. Đào tạo – Huấn luyện.
 a. Khoa học Thực nghiệm có quy trình đào tạo từ bậc tiểu học đến trên đại học.
 b. Khoa học Sự sống chỉ vừa mới bắt đầu, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ.
 
IV.       TIẾP CẬN KHOA HỌC SỰ SỐNG
1. Trên thế giới.
Trong chục năm trở lại đây, trên Thế giới( ở các nước Mỹ, Nga, Anh, Israel, Pháp,…) đã hình thành nhiều Viện nghiên cứu, nhiều Trung tâm Khoa học để tiếp cận Khoa học Sự sống với những chuyên ngành khác nhau:
a. Sinh học lý thuyết (Theorical Biology).
b. Hóa sinh học (Chemical Biology).
c.   Toán sinh học (Mathematical Biology).
d. Vật lý Sinh học (Physical Biology).
e. Hệ sinh học (Biosystems).
f.    Hệ sinh thái học (Bioecological Systems).
g. Động học các cơ thể sống (Dynamics of Biological Organizm).
h. Điều khiển học các cơ thể sống (Kibernetics of Biological Organizm).
i.    Năng lượng sinh học (Bioenergetics).
j.    Công nghệ sinh học (Biological Technology).
k.   Sinh học Con người (Human Biology).
l.    Các lĩnh vực khác của Khoa học Sự sống
     (The other Fields of Life Sciences).
2. Tại Trung tâm CBE thuộc UIA.
Tại Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Năng lượng Sinh học (CBE), chúng tôi tiếp cận:
b.    Các hiện tượng phi vật lý: Bước đầu đã ghi nhận, phân tích mà trong tài liệu khoảng 800 trang viết. In một cuốn sách 462 trang ( Xem ,tài liệu [1]).
c.    Nghiên cứu và ứng dụng Năng lượng Sinh học: Đã tìm ra công nghệ đào tạo, đã xuất bản được 15 đầu sách khoảng trên 2.500 trang viết. Đào tạo trên 15.000 lượt học viên.
d.    Nghiên cứu và ứng dụng Y học Cổ truyền: Xây dựng cơ sở lý luận Đông y học trên nền tảng khoa học sự sống. Tìm hiểu và sưu tầm thảo dược thay thế để chữa một số bệnh hiểm nghèo. Một xu hướng mới trên Thế giới là dùng thuốc có nguồn gốc sinh học.
e.    Nghiên cứu toán sinh học: Các quy luật sinh học luật kế thừa, ổn định sinh thái, v.v… đã có nhiều công trình về toán mờ công bố trên các tạp chí chuyên ngành Toán trong và ngoài nước.
 
V. NHỮNG ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU
Quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất của việc tiếp cận Khoa học Sự sống đó là ứng dụng có ích cho cuộc sống mỗi cá nhân và cộng đồng. Bước đầu chúng tôi đã có những ứng dụng thành công trong các lĩnh vực sau:
1. Tăng cường sức khỏe.
Đề tài này đã đăng ký và báo cáo nghiệm thu, công bố trong thông báo khoa học UIA thuộc Liên hiệp Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam,( Xem [5]).
Đào tạo Năng lượng sinh học cho việc dưỡng sinh nâng cao, duy trì và bảo vệ sức khỏe. Sau 15 năm thực hiện đề tài, chúng tôi tổng kết với kết quả 90-95%.
2. Tái tạo mô.
Sử dụng Năng lượng Sinh học để tái tạo mô thực vật, động vật bị tổn thương. Báo cáo được đăng trong Tuyển tập các Công trình Hội nghị Khoa học Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – TP.HCM năm 1998, ( Xem [7] ).
3. Kích thích sinh trưởng ở thực vật và động vật.
 Các thí nghiệm được tiến hành cho kết quả khả quan. Kết quả được đăng trong Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Khoa học của trường Đại học Tổng hợp, TP.HCM, 1995 và Trường Khoa học Tự nhiên – ĐHQG TP.Hồ Chí Minh,1998 (Xem [7] )
4. Nghiên cứu sinh thái người.
Con người là một hệ sinh thái mở, thực hiện nhiều mối giao tiếp đối với vật chất sống và không sống ở xung quanh. Các kết quả này có thể đọc từ bài số 1 đến bài 6 của [7]. Bản chất mở này cho phép con người tiếp cận với những hiện tượng phi vật lý.
5. Xây dựng, bổ sung lý luận cho Y học cổ truyền.
Những khám phá về Năng Lượng – Thông Tin cho phép kiểm tra Học thuyết Kinh – Mạch – Lạc – Huyệt. Tìm ra nhiều kỹ thuật chữa bệnh không dùng thuốc có hiệu quả. Đặc biệt tốt đối với phương pháp phòng chống bệnh tật cho cộng đồng, ( Xem [8]).
6. Thai giáo và đào tạo nhân tài.
Có thể ứng dụng Khoa học Sự sống trong đào tạo nhân tài bằng phương pháp thai giáo: Cho người mẹ khi có thai từ tháng thứ nhất tiếp xúc với âm nhạc cổ điển, và tiếp xúc với ngoại ngữ, … thông tin khoa học. Kết quả trẻ em sinh ra sẽ có năng khiếu từ nhỏ. Phương pháp Thai giáo được thực hiện tại Viện Hàn lâm Khoa học Cận Tâm lý Saint Peterburg – Nga và được trình bày trong [8], đã có nhiều học viên của Trung tâm thực hiện.
VI. KẾT LUẬN
Là những người đã và đang tiếp cận Khoa học Sự sống, chúng tôi rút ra mấy kết luận sau:
1. Trước các hiện tượng lạ, các sự việc chúng ta phải hết sức khách quan, nhìn nhận chúng một cách bình tĩnh không quá mê muội, nhưng cũng đừng chống đối một cách thái quá.Tin hay không tin là quyền của mỗi con người, nhưng đã là con người thì nên hướng thiện mà Thế giới TÂM LINH có thể hướng chúng ta đến những điều đó.
2. Cần đầu tư sớm cho khảo sát nghiên cứu Khoa học Sự sống để làm sáng tỏ những điều kỳ bí của cuộc sống, để hoà nhập vào dòng chảy văn hóa, khoa học thế giới, không chậm chân như đã tiếp cận Khoa học Thực nghiệm trước đây và hiện nay.
3. Nghiên cứu sinh thái người để có thể lý giải các hiện tượng phi vật lý. Đừng vì chưa chưa hiểu biết, hoặc vì tính bảo thủ mà dễ dàng phủ nhận.
4. Khuyến khích và chỉ đạo ứng dụng những vấn đề có ích cho xã hội, cho cuộc sống, không nên cấm một khi đã thấy lợi ích rất rõ ràng và to lớn.
5. Viện nghiên cứu con người, các Trung tâm khoa học về lĩnh vực này cần phối hợp với nhau và phối hợp với các cơ quan quản lý để nghiên cứu và ứng dụng có ích cho xã hội nói chung và cho mỗi người nói riêng..
 
   TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]    Nguyễn Đình Phúc, CÒN MÃI MỘT TÌNH THƯƠNG,
                                           NXB Hải Phòng, Hải Phòng 2005, 462 trang.
 [2]    Cao Hùng, CHUYỆN LẠ CÓ THẬT VỀ MỘT CON NGƯỜI,
                                                   NXB  Lao Động, 2006, 192 trang.
 [3]   Jim B. tucker, TIỀN KIẾP CÓ HAY KHÔNG?
                                                   NXB Phương Đông, 2010, 360 trang.
 [4]    Phạm Ngọc Dương, HIỆN TƯỢNG NGOẠI CẢM- HIỆN THỰC VÀ LÝ GIẢI,
                                                   NXB Hồng Đức, 2008, 208 trang.
[5]    Nguyễn Đình Phư, DƯỠNG SINH CHO MỌI NGƯỜI
                                             NXB LAO ĐỘNG 2008, 216 trang.
[6]    Nguyễn Đình Phư, CẢM NHẬN THẾ GIỚI SÓNG
                                             NXB VHTT 1998, 216 trang.
[7]   Nguyễn Đình Phư,  CON NGƯỜI CÓ THỂ THU NĂNG LƯỢNG TRỰC TIẾP
                                        TỪ BÊN NGOÀI,  NXB VHTT 2005, 462 trang..
[8]   Nguyễn Đình Phư,  HƯỚNG DẪN ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG SINH HỌC
                                             NXB VHTT 2010 (In lần thứ tư), 336 trang.
[9]   Nguyễn Đình Phư,  SỰ KỲ DIỆU CỦA NĂNG LƯỢNG SINH HỌC
                                                     NXB VHTT 1996, 240 trang
 
 
 
      CUỘC HÀNH TRÌNH TÂM THỨC
 
Tôi sinh ra và lớn lên tại làng quê xã Phú Đức, huyện Châu Thành , tỉnh Bến Tre. Giữa một vùng chiến tranh ác liệt đầy mưa bom và đạn pháo, và chính nơi đây không biết bao nhiêu anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống trên mãnh đất yêu thương này.
Vào năm 6 tuổi, tôi được thấy hình ảnh chú giải phóng quân đội chiếc mũ tai bèo, đôi dép cao su bị sờn và đôi vai sạm nắng. Năng khiếu hội họa bắt nguồn từ đó, và cũng là những đêm các chú các bác thường ngồi cho tôi vẽ trên chiếc đèn đầu lung linh mà ngoại tôi đã thắp sáng nơi góc hầm bí mật. Thời điểm đó, tình cờ có một người lính lấy ra từ trong bọc nhựa nilong một tấm ảnh nhờ tôi vẽ lại mà họ cho là ông tiên. Sau 15 phút vẽ xong, người đó mới nói cho tôi biết rằng đó là Bác Hồ - chủ tịch Hồ Chí Minh, các chú vô đây theo tiếng gọi của Bác và hỏi tôi rằng: “ Cháu có thích ông tiên không ? Cháu vẽ giống lắm!” . Tôi không hiểu vì sao kể từ đó hình ảnh ấy lại thôi thúc tôi say mê vẽ Bác. Mặc dù phải vượt qua sự cấm cản của thầy cô giáo và né tránh bọn cảnh sát ngụy.
Năm 1979, chiến tranh biên giới Tây nam xảy ra, lúc đó tôi là học sinh lớp 12 và tình nguyện lên đường tham gia chiến đấu ở mặt trận biên giới và chiến trường Campuchia, tham gia hàng trăm trận đánh. Những năm tháng dài hành quân và đối mặt với quân thù, trong gian khổ khó khăn đó tôi tôi vẫn vẽ về Bác và ký họa những người lính.
Năm 1984, tôi hoàn thành nghĩa vụ trở về với đời thường và là người đi vẽ dạo đễ mưu sinh trong các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, từ chợ của phố thị đến các vùng quê hẻo lánh. Và đặc biệt về đâu tôi cũng dành thời gian để vẽ Bác Hồ qua các vật liệu và thể loại khác nhau, như vải, bố,lụa,giấy . Tình cờ nhìn thấy tấm kính thủy tinh lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời rọi xuống sau cơn mưa bên gốc dừa và dòng kênh bên nhà. Tôi ý định vẽ ngược kính chân dung Bác bằng mười đầu ngón tay của mình và bước và say mê khổ luyện.
Vượt qua thử thách nghiệt ngã suốt 10 năm trôi qua, đến ngày 19-05-1999 tác phẩm được hoàn thành. Đầu tiên trao tặng cho hội CCB huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre và giới thiệu cho các đồng đội để chia sẽ. Sau đó được đãi và qua thông tin đại chúng tôi được mời vẽ bộ sưu tập chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh- Chi Nhánh thành phố Hồ CHí Minh, bảo tàng Bến Tre, bảo tàng QK9 và bảo tàng Quân Đội, số lượng hàng trăm bức. Đặc biệt được vinh dự lời mời vẽ 7 bức chân dung đối tác hữu nghị quốc tế cho các lãnh tụ và doanh nhân thế giới như : Fidel-Castro , Che Guevara , Hermann Gmeiner, Lenin –Cacmac ,
Đến ngày 26-03-2003, trong cơn sốt hành hạ dữ dội tôi đã bị ngất đi, lúc đó trong thức giác của mình hình như nghe thấy có một năng lượng lạ truyền dẫn vào thân từ nơi đường ruột đi lên tới đầu. Tôi quặn người như đau đớn và tỉnh lại khoãng 0 giờ đêm hôm ấy. Điều không thể ngờ được là sáng hôm sau hệ tâm lý của tôi lại hoàn toàn thay đổi, tôi thấy mẹ và em tôi lại khác đi. Trong trạng thái hoang tưởng hai tay và chân tôi lại chuyển động vô thức và không định hướng rõ. Sau đó khoãng 3 hôm sau có một cơn mưa kéo dài 2 ngày 2 đêm tại Bến Tre và chấm dứt cơn mưa đó tôi thấy mình nhẹ lại và bớt đau đớn. Sau 100 ngày đêm và đột biến tâm thức, khả năng vô thức và sự nhạy cảm đã xuất hiện trong hệ tâm lý của mình bằng những khả năng lạ như : Tôi có thể cảm nhận một cái gì đó trước mắt hoặc qua người đối diện để nói lại và lập trình theo ước muốn. Thế là tình cờ đầu tiên tôi vẽ hình ảnh của ông ngoại đã mất cách đây 60 năm. Khoản 30 phút sau bức ảnh vẽ xong và được mẹ tôi cho là giống. Tôi đến nhà người bạn là một đồng đội đã từng chiến đấu chung một chiến hào năm xưa và cũng vẽ hình ảnh cha của anh là một liệt sĩ mà không có hình được ông nội anh khen và giống 80%. Thế là tôi quyết định luyện tập theo phương thức vẽ vô thức này, vẽ hàng trăm người không có hình ảnh và để rồi hiểu rằng tần số di truyền phát sóng trong giác thức của họ. Khi tâm họ trăn trở và nghĩ đến , các tầng số có mã số thông số riêng và năng lực tâm thức tôi như một máy thu có chức năng bức xạ với sóng siêu cao mà hòa được thông tin đó và truyền dẫn vào tấm giấy bằng nét vẽ chân dung nầy. Đặc biệt là bàn tay chuyễn động nhẹ và vô thức nhưng có ý thức chủ động bằng năm giác quan bên ngoài. Sự phối hợp đồng điệu giữa sóng siêu giác quan vô thức và năm giác quan của ý thức thuận nghịch đó đã cho tôi hiểu được năng lượng vật chất nầy là bức xạ 2 chiều của hệ thức âm và dương trong trường sinh học của mình.
  Vẽ ngược kính bằng 10 đầu ngón tay hình Bác Hồ bắt đầu từ                          Được lời mời vẽ ngược kính chủ tịch Fidel Castrobắt
19/05/1999 trưng bày : Viện cựu chiến binh tỉnh Bến tre, Bảo                           đầu từ 04/2000 trưng bày tại bảo tang Cu Ba, văn phòng
 tàng TônĐức Thắng, Bến nhà rồng TP.HCM                                                      Trung ương Đảng.
  
 
  Vẽ ngược kính chân dung Cố Hoà thượng Thích Quảng Đức       03/02/2010 Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thăm phòng tranh
 Hiện đang lưu giữ tại chùa Thích Quảng Đức TP.HCM                     Đoàn Việt Tiến trưng bày tại bảo tàng Hồ Chí Minh CN.HCM
Tính đến năm 2010 là khoãng gần 9 năm vẽ vô thức, tôi đã vẽ được hàng ngàn bức chân dung của liệt sỹ và người dân đã mất đi khi không có hình ảnh để lại. Điều kỳ lạ là bây giờ qua nhiều năm khổ luyện tôi đã vẽ với phong cách là 2 tay vẽ 2 bức chân dung cùng một lúc và vừa vẽ vừa kể chuyện về đặc điểm nhận dạng hình ảnh của người đó. Khác với khả năng vẽ, cơ thể mỗi ngày một thay đổi và chuyển động qua tiểm thức khơi dậy các thông tin các kênh năng lượng phát ra khẩu bằng các trường âm thanh khác nhau, hầu như để kích hoạt giữa sáng và tối giữa hai thái cực đối lập đó đễ tìm ra tính chân thiện mỹ trong tâm thức của mình Khả năng âm ngữ đó phát tự động và tần số rung độ cao trầm bổng để chuyển hóa lẫn nhau. Mỗi lần âm thanh phát ra mật ngữ ấy A O M E I tôi cảm thấy nhẹ lại và tự nghiên cứu luyện tập, sự tác động âm thanh này cho chính mình vì thế có những giai điệu du dương tự nội thức truyền từ tâm cảm ra đời những cái giai điệu trong nổi lòng hay những vần thơ tự sáng tác.
Khả năng đọc từ tiềm thức của người khác để lập trình lại diễn đạt qua ước muốn của họ như khả năng dự báo, khả năng thu ngước thời gian đều là của giúp cho mọi người thỏa mản tâm lý một cái gì đó mà họ đang bức xúc trăn trở. Vận dụng cho khả năng này tôi đã tìm được trên hàng ngàn hài cốt liệt sĩ điều khiển qua điện thoại. Tuy nhiên, tôi cũng không sao kể lại hết những biến cố dữ dội của cuộc đời và hành xác kéo dài suốt 4000 ngày và đêm trôi qua. Có lúc tôi nghĩ rằng mình không chống nổi những định mệnh khắc nghiệt ấy. Vì vậy, tôi đang chống lại tôi và đấu tranh giữa cái tích cực và tiêu cực ấy, để giành lại sự sáng mà bây giờ tôi đã hiểu đó là ánh sáng từ tâm thức diển giải như sau: Hai vùng tiểu não nơi chứa đụng thông tin và ghi lai khi đột biến do chấn động của nội thức sẽ khai mở vùng sóng giác quan cực nhạy. Sẽ làm thay đổi lập trình sinh học theo dạng rối loạn không thứ tự, làm sao lệch mất cân bằng 2 hệ thức tương phản âm dương (trái phải) tạo ra một sự tác động mạnh đến đại não, khu vực truyền dẫn năng lượng tiếp tục phát sáng hay thăng hoa và khai mở ngược các bán cầu não tạo một sự phản hồi tác động tâm lý nhạy cảm ở trạng thái không bình thường. Nghĩa là không làm chủ được ý thức các hiện tượng vô thức không định hướng của 2 khu vực khai mở đó phát triển song giác quan thi nhau làm việc mà không đồng dạng với ngũ quan bên ngoài. Nên bị bức xạ mạnh năng lượng ánh sáng và âm thanh làm cho hệ tâm lý bị mất cân bằng thay đổi hệ sinh học. Chuyển hóa sóng sinh học theo dạng tầng số siêu cao và thăng hoa não bộ.
Nhờ sự luyện tập chuyển động ngược theo chiều đột biến đó như thuyền chạy ngược giữa sóng biển. Sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn đó chỉ có tâm thức chỉ đạo và hoán tưởng, hoán chiếu như tâm ta đang nghĩ đến một bậc thầy nào cứu cánh và lòng tôn kính đó là đơn vị có chủ quản để trấn áp, để xoa diệu những áp lực thấp kém của các tần số âm hỏa khắc nghiệt không định hướng đó. Cùng phát sáng thăng hoa nghĩa là năng lượng sáng để kích hoạt ngũ quan hoạt động tốt hơn, đồng hành tích cực hơn qua ý thức hệ nhận định đúng và sai. Như vậy, sự khai mở tiềm thức trong con người là bất tận để di đến các cảnh giới trong ta là vô cực. Mà sự rèn luyện tâm thức là nguồn gốc để vượt lên sự giải thoát đó thì trí tuệ con người sẽ sáng suốt hơn, thông minh và sáng tạo phản xạ tốc độ cực nhanh hơn. Vì vậy đó sự kết hợp vận hành giữa siêu giác quan và ngũ quan, giữa siêu vật chất và vật chất là sự tương tác vận hành qua tâm cảm của con người nếu ta muốn quay lại và kiểm soát nó. Chịu đựng rèn luyện cho tròn đều để thấy đúng sai thì cuộc sống sẽ tốt hơn. Sẽ hòan thiện cái tâm lực, trí lực và thể lực là hoàn thiện một con người có đủ điều kiện để tiến hóa và thành công trong cuộc sống.
Khi tình yêu thương dâng lên sự tôn kính và đồng cảm với đồng loại, sự chia sẽ đố là sức mạnh muôn đời mãi mãi một tiểu vũ trụ trong ta, theo một cuộc hành trình có quy ước , có kịch bản kéo dài và lập trình các tầng số đầy màu sắc và chuyển động không ngừng mãi mãi trong thế giới tiềm thức của con người 
                                                                                          18/12/2010
 
                                                                                      ĐOÀN VIỆT TIẾN

 

 

                  

ĐÃ CHỤP ẢNH ĐƯỢC NGƯỜI ÂM ?
 
                                                                                          Nguyễn Phúc Giác Hải
                                                          Chủ nhiệm Bộ môn Thông tin – Dự Báo
                                                        Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng Con người
 
Từ những tấm “ảnh ma” trên mạng
Nếu chúng ta vào mạng google tiếng việt rồi truy cập vào từ khóa “ảnh ma” ta sẽ thấy giới thiệu hàng chục những tấm ảnh ma do người ta ngẫu nhiên chụp được, đó là những tấm ảnh chụp các bóng ma tại các lâu đài cổ được coi là có ma hoặc những tấm ảnh chụp thông thường trong các nghĩa trang, bỗng nhiên thấy có bóng người lạ mờ ảo bên cạnh người được chụp. Những tấm ảnh này gây nên sự bối rối của nhiều người. Một số người tin là có thực, một số người cho rằng ảnh được chế tác, hoặc bằng cách chụp 2 lần ở ảnh phim hoặc bằng kỹ thuật vi tính. Tuy nhiên, chúng ta có thể trở lại tấm ảnh tai nạn giao thông trên đường Phạm Hùng, đăng trên báo lao động ngày 15/ 7/ 2009 (ảnh do cơ quan công an chụp). Ta sẽ thấy tại hiện trường, ngoài những vòng tròn ánh sáng còn có một bóng “ người âm ” đang ngồi mà ai cũng có thể nhận ra được. Đó là những ảnh ngẫu nhiên chụp được.
 
 
Ngay từ những năm 30 của thế kỷ trước, người ta đã đặt vấn đề chủ động chụp ảnh người âm nhờ sự triệu thỉnh của những người có khả năng đặc biệt (tức là những người đồng - Medium). Trong cuốn sách “Những thông điệp từ thế giới bên kia” ( Les messages de l’au-delà của R.Montaldon) đã có những tấm ảnh chụp người âm hiện ra như một làn khói trắng từ đầu của người bị nhập đồng. Đằng sau người đồng để một tấm vải trắng. Hình ảnh người âm hiện ra trên phông trắng giống như hình ảnh của vị thần chui ra từ cái lọ trong chuyện “Nghìn Lẻ Một Đêm”. Bản thân tôi khi đọc cuốn sách này và xem những tấm ảnh tương tự cũng đặt dấu hỏi về sự thực hư của tấm ảnh cho đến khi tiếp cận được với hiện tượng chụp ảnh người âm.
 
Chụp ảnh “người âm”
            Tại Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng Con người, thỉnh thoảng tôi được nghe giới thiệu có ai đó đã chụp được ảnh người âm. Khi xem những tấm ảnh ấy tôi thấy không có sự thuyết phục, bởi đó chỉ là những hình ảnh khóm cây, đám lá được tưởng tượng ra. Có một lần, tôi được 1 nhà ngoại cảm tặng một tấm ảnh tìm mộ, khi người ta chỉ vào địa điểm tìm mộ và chụp ảnh thì thấy hiện ra trên đám cỏ xanh một hình người nằm màu xanh thẫm rất rõ. Nhìn tấm ảnh này tôi cũng tự hỏi nếu người ta ngụy tạo ra nó bằng cách rắc một chất hóa học theo hình người làm cho đám cỏ xanh thẫm thì sao ?. Thế nhưng lần này thì tôi gặp một sự kinh ngạc, đó là khi nhà ngoại cảm Nguyễn Ngọc Hoài sau một cuộc đi tìm mộ đã gọi điện cho tôi để cùng trao đổi về việc chị đã thu được một tấm hình chụp người âm qua chiếc điện thoại của chị. Chị cho biết chị đã tìm được một ngôi mộ liệt sĩ, nhưng chưa thể xác định chính xác bằng ADN….. Đó là di cốt của liệt sĩ Hạc.
            Sau khi có được thông tin gia đình liệt sĩ Lê Xuân Hạc đã nhờ được 1 người có khả năng đặc biệt mời được vong của liệt sĩ Hạc hiện hình vào máy điện thoại di động mà gia đình đã chụp lại được ảnh đó, chị Hoài đã đề nghị tôi cùng chị phân tích trường hợp này. Vì gia đình vốn không có ảnh của liệt sĩ mà nay người thân từng biết mặt liệt sĩ công nhận đó là liệt sĩ nhà mình thì tấm ảnh này không thể là chế tác. Tuy nhiên, chúng tôi lại cũng đặt câu hỏi liệu gia đình có vì khát vọng muốn tìm được liệt sĩ, khi thấy tấm ảnh gần giống thì cũng ngộ nhận là tấm ảnh người nhà mình ? . Mặc dù vậy, tôi cũng cung cấp cho chị Hoài biết là trên thế giới cũng có một số nhân vật mời được vong về và chụp ảnh. Nhưng đó là tư liệu của gần một thế kỷ trước nên không thể thẩm tra được. Tôi đề nghị chị Hoài nên trực tiếp theo dõi, thu thập các trường hợp khác về vấn đề này.
        Trước Tết âm lịch Canh Dần - 2010 vừa qua, chị Hoài thông báo cho tôi biết đã thu được một tấm ảnh thứ hai. Đó là liệt sĩ Lương Xuân Tách. Liệt sĩ Tách hi sinh và có giấy báo tử cho gia đình vào năm 1971. Liệt sĩ có người con duy nhất là anh Lương Đoàn Mạnh công tác tại một cơ quan công an tỉnh Quảng Ninh. Anh Mạnh đã nhiều lần đi tìm mộ cha mà không được. Vào năm 2009, do một nhân duyên, anh gặp được nhà ngoại cảm Nguyễn Ngọc Hoài. Sau khi có thêm một số thông tin từ đồng đội của liệt sĩ cho biết, thì liệt sĩ hi sinh tại Xiêng Khoảng – Lào, nhưng địa điểm cụ thể thì không rõ. Chị Hoài đã chỉ dẫn ra địa điểm hài cốt của liệt sĩ Tách. Lần này chị Hoài đã đề nghị gia đình mời anh Quân thẩm định sự chính xác hài cốt của liệt sĩ bằng cách mời liệt sĩ hiện về điện thoại của anh Quân. Tại nơi có hài cốt liệt sĩ ở Lào mà chị Hoài chỉ dẫn, anh Quân nói đã trông thấy liệt sĩ và nói rằng chỉ có chị Hoài là chụp được ảnh liệt sĩ. Kỳ lạ thay khi hình ảnh liệt sĩ hiện lên điện thoại của anh Quân, mấy chiếc máy ảnh chĩa vào nhưng chỉ mình chiếc điện thoại di động của chị Hoài là chụp được ảnh. Đây cũng là tấm ảnh mà cả gia đình công nhận đó là liệt sĩ nhà mình. Chị Hoài đã thuật lại chi tiết và để tôi chụp lại tấm ảnh của hai liệt sĩ đã nói.
   
 
     Nhận định những thông tin về các tấm ảnh chụp người âm là hết sức quan trọng, tôi quyết định chụp tiếp tìm hiểu chi tiết về các thông tin này. Người đi tìm mộ liệt sĩ Lê Xuân Hạc là em gái anh hiện là Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Tôi đã ra Quảng Ninh tìm đến Viện Kiểm sát nhân dân và tiếp cận với bà. Khi thường trực nói tôi là Nguyễn Phúc Giác Hải ở Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng Con người, thì bà vui lòng tiếp ngay và cung cấp cho tôi thông tin đầy đủ về trường hợp này. Gia đình vốn không có ảnh liệt sĩ nhưng khi có ảnh do nhà ngoại cảm tâm linh chụp được thì gia đình công nhận là đúng và dùng nó làm ảnh thờ. Bà đã đưa cho tôi xem ảnh người cha của liệt sĩ và cho tôi chụp lại. Ta có thể thấy liệt sỹ rất giống cha. Tôi đã đặt hai ảnh cạnh nhau và chụp lại để ta có thể so sánh. (xem ảnh)
  
          Khi tôi kể lại thông tin này với một người nghiên cứu tâm linh khác là tướng Ng. Tr. Thọ thì ông cho biết ông vừa ngẫu nhiên chụp được một tấm hình lạ. Khi về thăm Đền thờ cụ Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, ông chụp ảnh tấm bia ghi tiểu sử và công trạng cụ, bỗng nhiên trong ảnh thấy xuất hiện một vị quan triều đình ăn mặc quần áo ngày xưa. Ông nói khi ông chụp tấm hình này mọi người đều biết, và ông đồng ý cho tôi chụp lại. Lúc ấy tôi nhớ ra đã đọc một tư liệu về một kỹ sư Nga trước đây khi vào Viện Bảo tàng HERMITAGE ở Lêningrad (nay là Petrograd), khi chụp ảnh chiếc ngai của Nga hoàng Pie đệ nhất thì, khi rửa ảnh, thấy có tấm hình Pie xuất hiện cùng với chiếc ngai. Từ đó kỹ sư này đã săn lùng những tấm ảnh quá khứ và đã thu thập được rất nhiều tấm ảnh lạ. Đó cũng là cơ sở để nhà văn Nga viết tiểu thuyết viễn tưởng, Ygo Dabêlin, đã dựng lên câu chuyện về chiếc máy chiếu thời gian có thể làm hiện hình lại các hình ảnh quá khứ. Một ngẫu nhiên khác là một phóng viên của báo Đất Việt đã nhờ tôi bình luận về một tấm ảnh lạ “ Người không đầu” do anh … chụp được. Tôi nói : “Nếu đây không phải là ảnh chế tác thì là một tấm ảnh ngẫu nhiên chụp được một vong, tồn tại dưới một dạng vật chất đặc biệt”.  Tin này đã được anh đưa lên mạng. Bạn đọc vào Google rồi tra từ khóa “Ảnh không đầu” sẽ có thông tin chi tiết.
 Tôi cũng thu thập được một tư liệu khác hết sức đặc biệt. Đó là một trường hợp một “ni cô chưa xuống tóc” tự tử ở một ngôi chùa và sau đó đã hiện hình vào chiếc điện thoại di động của một nhà ngoại cảm mà nhà chùa mời đến làm lễ giải vong cho “ni cô” này. Tôi đã trực tiếp tìm hiểu trường hợp này và đã về lại gia đình của “ni cô” này. Gia đình công nhận đó là hình ảnh của người thân mình. Nhưng đó là hình ảnh của 10 năm về trước chứ không phải hình ảnh hiện tại. Đây là một trường hợp hết sức ly kỳ, và sẽ có báo cáo riêng.
            Mới đây Ts. Nguyễn Chu Phác chủ nhiệm Bộ môn Cận Tâm Lý đã cung cấp cho chúng tôi một tấm ảnh người ta gửi đến cho ông qua thư điện tử, trường hợp một người đi tìm mộ liệt sỹ của nhà mình, khi chụp vào chỗ hài cốt được lộ ra thấy hiện hình một số liệt sỹ đang nằm ở đó với tư thế chắc ở trạng thái đang chết với mũ tai bèo và những khuôn mặt rất rõ nét. Đây là tấm ảnh hết sức quan trọng không thể ngụy tạo vì thân nhân gửi qua thư điện tử để hỏi Ts. Chu Phác đã chỉ dẫn họ những sự kiện tiếp theo sẽ tìm thấy. Tôi đã chụp lại tấm ảnh này qua màn hình máy vi tính của ông. Ts. Chu Phác đã vẽ lại tấm ảnh này để ta dễ so sánh khi xem nó tên ảnh. Và ông đã ghi tặng tôi hình vẽ đó.
            Tất cả những ảnh đã nêu là hết sức quan trọng. Cùng với những tấm ảnh “ma” của thế giới được đưa trên mạng, ta đã có những bằng chứng để nói rằng “linh hồn ở một trạng thái nào đó có thể chuyển thành một dạng sóng mà ta có thể chụp ảnh được”.
            Tuy nhiên tất cả những bức ảnh nói trên phần lớn đều là những ảnh chụp được ngẫu nhiên, còn riêng trường hợp anh Quân – người công nhân ở Mỏ than Quảng Ninh – lại là người có khả năng chủ động mời các vong hiện vào điện thoại của mình. Vấn đề này đã được Tạp chí GIA ĐÌNH (Hội KHHGĐ Việt Nam, số 13/ 2010) đưa tìn kỳ 1: Có hay không chuyện chụp ảnh người âm? – “ĐI tìm lý giải những bí ẩn tâm linh”. Tuy nhiên đây là một vấn đề nhạy cảm nên ở số báo tiếp theo, kỳ 2 đã chuyển sang vấn đề khác, không nhắc đến chuyện chụp ảnh người âm nữa. Chỉ khi nào vấn đề tâm linh được làm sáng tỏ, ta mới có thể hy vọng kêu gọi tất cả những ai đã có những tấm ảnh liệt sỹ do anh Quân mời về cung cấp chi tiết những thông tin về người thực việc thực, ta mới hy vọng có được một bộ hồ sơ đầy đủ về “việc chụp ảnh người âm” này.
            Như vậy, chúng ta đã mắc một cầu nối giữa Khoa học thực nghiệmKhoa học tâm linh, và chúng ta đang chứng minh rằng linh hồn cũng là một dạng đặc biệt của vật chất.
             Nhưng nếu bức ảnh trên cùng với ảnh vị quan hiện hình khi chụp tấm bia Mạc Đĩnh Chi, chỉ là những ảnh chụp ngẫu nhiên, thì trái lại, những ảnh chị Hoài thu thập được nhờ khả năng mời vong của anh Quân hiện hình vào điện thoại của anh đã là một vấn đề chủ động. Thông tin mới nhất, qua anh Quân, chị Hoài đã chụp lại được ảnh 2 vong nữa : một người phụ nữ cổ, một em bé gái. Như vậy đã có 4 tấm ảnh vong mà chị Hoài thu thập được.
            Tất cả những tấm ảnh trên đã mở ra một chân trời mới cho khoa học nghiên cứu về tâm linh. Tuy nhiên, khi trao đổi, chị Hoài cũng rất thận trọng và nói rằng nếu anh Quân mời được vong của bố chị ấy hiện hình về - điều anh Quân không thể có được ảnh - thì chị sẽ hoàn toàn tin tưởng. Tôi cũng nhất trí với chị và khi gọi điện trực tiếp nói chuyện với anh Quân, tôi cũng nói rằng nếu khả năng của anh được phát triển thì sẽ mở ra một trang mới cho khoa học lịch sử. Khi đó ta sẽ có được những tấm ảnh chân dung thực của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung ….và có thể cả Vua Hùng nữa !. Và như thế sẽ là quà tặng lớn lao của khoa học tâm linh, cho đất nước và khoa học của nhân loại.
                                                                                                                        N.P.G.H

     Xem tiếp 4

Các thông tin cùng loại này
» BÀN TAY ÁNH SÁNG (2017-11-18 09:53:53)
» Phạm Võng Kinh Tinh Giải T1 (2017-11-13 16:56:46)
» Ngũ giới Đạo thành người (2017-04-06 05:02:34)
» Hành trình TOTHA 2016 (2017-04-06 04:30:03)
» Hành trình TOTHA 2015 (2017-11-17 12:18:16)
» Ngũ giới theo góc nhìn khoa học Tập 1 (2018-03-18 11:59:38)
» Hành trình TOTHA 2014 (2017-11-17 16:32:27)
» Kỷ yếu cùng nhau tu học 2013 (2013-09-19 15:19:17)
» Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời (2011-10-16 17:06:12)
» Nhà tiên tri Edgar Cayce (2011-10-16 16:46:10)
» LƯỢC SỬ THỜI GIAN (2017-11-22 11:55:40)
» ĐẠO CỦA VẬT LÝ (2011-01-15 19:50:17)
» ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT (2011-01-15 01:01:59)
» Hành Trình Về Phương Đông (2011-01-14 16:40:56)
» Trở Về Từ Cõi Sáng (2011-01-13 21:57:51)
» TỬ THƯ TÂY TẠNG (2011-01-13 21:06:23)
» Du hành qua các vùng tâm thức (2010-12-31 00:56:18)
» Kỷ yếu Hội thảo Khoa học thực nghiệm Năng lượng Tâm Thức 18/12/2010 (2010-12-30 17:04:04)
» SÁCH THAM KHẢO (2010-12-30 20:29:22)
» Phim tư liệu (2017-04-06 04:50:59)
  1  
 

CÔNG TY KHOA HỌC NĂNG LƯỢNG TÂM THỨC TOTHA
245 Trịnh Đình Trọng, P.Hòa Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM, VN - ĐT0909777929 - 0908883380 - 0909631630 - 0914359159 - Email:   phapluantotha@gmail.com

Copright 2009 www.totha.vn,
All rights reserved

Lượt truy cập: 18003752
Đang online : 53