۞ Tóm tắt nguyên lý tu tập trong Phật học :
*Quả Nhân Thừa (Cõi Người) -> Hệ sinh học hoàn thiện việc tu Thân nhờ thực hành hoá giải (đoạn trừ hoặc đoạn diệt) 5 ngã xấu gây ảnh hưởng mất cân bằng Hệ Tâm Thức (Ngũ Giới). Đó là : 1-Sát sanh, 2-Trộm cắp, 3-Dâm ô, 4-Loạn khẩu và 5-Say xỉn). Thực hành pháp tu (phương pháp tu chỉnh) nầy nhằm tiêu trừ ít, nhiều hoặc đoạn diệt hẳn 5 nguyên nhân [Nhân] chủ chốt đã dẫn, tạo điều kiện [Duyên] cho Năng lượng đen tác động lên Hệ Tâm Thức chúng ta. Vì vậy, sẽ tránh được những tạp nhiễu tác động làm cho bị rối loạn, mất cân bằng [Quả]. Do đó, Thân Tâm ít, nhiều cũng được bình ổn kéo theo…cùng cuộc sống thực tế tương ứng 3 cấp : Thượng (Giàu sang, Sung sướng), Trung (Bình thường, An ổn), Hạ (Nghèo hèn, Khốn khổ) phản ảnh đúng với công năng tu tập (tích đức) và năng lượng tâm thức mà ta tích luỹ (Nghiệp)
*Quả Thiên Thừa (Cõi Trời) -> Hệ sinh học hoàn thiện việc tu chỉnh hợp nhất Thân-Khẩu-Ýnhờ việc thực hành pháp 10 Nghiệp Thiện (Thập Thiện Nghiệp). {Ba nghiệp của Thân:1- Không Sát sinh,2- Không Trộm cắp, 3-Không Dâm ô. Bốn nghiệp của Khẩu: 1*Không nói điều Giả dối, 2*Không nói lời Ác độc dơ bẩn, 3*Không nói điều Thiêu dệt uỷ mị, 4*Không nói Lương lẹo xoay chiều nịnh hót và Ba nghiệp của Ý:1*Không Tham lam quá độ, 2*Không Sân nộ nóng nảy háo động, 3*Không Si mê nhu nhu nhược cả tin}. Tuỳ vào công năng tu tập (tu chỉnh và tập luyện)Thân và Tâm của Hệ sinh học ít, nhiều không còn bị vướng mắc bởi những tác động Sóng-Hạt. Do đó, tinh thần của Hệ sinh học sẽ được thông suốt (Thần thông), không còn những nặng trĩu của những nhu cầu thể xác nữa, Thân-Tâm thật hỉ lạc hạnh phúc nhẹ nhàng bay nhảy khắp muôn nơi…Tương ứng với công năng tu tập và Năng lượng Tâm Thức tích luỹ (Nghiệp) sẽ có 3 cấp Thượng, Trung, Hạ phù hợp : Thượng Thiên (Thể Thức sự sống nơi cõi nầy biến ảo ngời sáng, xinh đẹp, thần thông vi diệu phát hoá rộng rãi, Âm-Dương giao hợp nhau bằng Tâm Năng, tái sinh tức thời theo ý muốn, chu trình Sinh-Diệt ≥ 10.000 năm) , Trung Thiên (Thể Thức sự sống nơi cõi nầy hài hoà, xinh đẹp, phúc hậu, thần thông biến hoá vi diệu, Âm-Dương giao hợp nhau chỉ qua việc nắm tay, tái sinh sau 1 ngày đêm theo ý muốn, chu trình Sinh-Diệt ≤ 10.000 năm) , Hạ Thiên (Thể Thức sự sống nơi cõi nầy gần giống như ở cõi ngưới, nhưng xinh đẹp, uy nghi hơn, thần thông biến hoá đa dạng, còn tồn đọng chút ít bản năng tranh đấu, luyến ái, Âm-Dương giao hợp nhau bằng sự quấn quít bên ngoài, tái sinh sau 10 ngày đêm theo nghiệp lực, chu trình Sinh-Diệt ≤ 5.000 năm).
*Quả Thanh Văn Thừa (Cõi yên tịnh hợp nhất Trí-Tâm-Thể giải thoát luân hồi) -> hoàn thiện việc tu chỉnh Hệ Tâm Thức cân bằng không còn bị kéo lệch nữa (Diệt Ngã) bởi do 4 sự thật hiển nhiên biến ảo một cách vi diệu (Tứ Diệu Đế : Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế) tác động lên Hệ Tâm Thức con người làm kéo ngã Tinh thần và Thân Tâm bị biến động tạo nên những ràng buộc, những uẩn khúc gây nên bao khổ đau, phiền não…Muốn thoát khỏi (Giải thoát) những ràng buộc giả hợp - cốt lõi của mọi phiền não khổ đau (Khổ đế) – con người cần thấu hiểu tập hợp của những nguyên nhân cơ bản (Tập Đế) tạo nên nó (Khổ đế). Sau đó, vận dụng hiểu biết và tư duy nhận thức một cách đúng đắn (Chánh Tri Kiến và Chánh Tư Duy) để tìm ra giải pháp diệt bỏ chúng (Diệt Đế), thì lúc bấy giờ Hệ Tâm Thức của ta tất nhiên sẽ được định vị đúng hướng (Chánh Ngã), đúng đường (Chánh Đạo) và đáp đúng quỹ đạo của sự thanh tịnh và an lạc là điều tất yếu (Đạo Đế) và sẽ không bao giờ còn đâu nữa là vòng xoay lẫn quẩn của Khổ Đế phải không?... Hệ Sinh học thực hiện việc tinh tấn tu tập đạt được Trí sáng + Tâm an +Thể cân bằng nhờ việc thực hành pháp tu (phương pháp tu chỉnh Hệ Tâm Thức) gồm 8 con đường dẫn đến chân lý (Bát Chánh Đạo : 1-Chánh Tri Kiến : Luôn định hướng hiểu biết, nhận thức, học hỏi về những điều hay, lẽ phải hướng về Chân-Thiện-Mỹ ; 2-Chánh Tư Duy : Luôn suy nghĩ, tìm hiểu cách quán xét cách tu chỉnh Thân và Tâm đồng hướng về Chân-Thiện-Mỹ ; 3-Chánh Khẩu : Luôn nói ra những lời thành thật, những ngôn từ hướng về Chân-Thiện-Mỹ ; 4-Chánh Nghiệp : Luôn hành nghề nghiệp mưu sinh một cách chân chánh mang đến lợi ích cho xã hội, không phạm giới, định hướng tiến dần đến Chân-Thiện-Mỹ ; 5-Chánh Mạng : Luôn giữ cách sống hoà hợp cùng cộng đồng (đắc nhân tâm), không vi phạm ngũ giới, Thân và Tâm phấn đấu hoà đồng cùng Chân-Thiện-Mỹ ; 6-Chánh Tinh Tấn : Luôn siêng năng trau dồi Tri Kiến, Tư Duy, Lời nói, Cách sống ở đời, Nghề nghiệp có ích cho xã hội và việc tu tập (tập luyện tu chỉnh, sữa chữa), sao cho Hệ Tâm Thức ngày càng tốt hơn, sáng hơn, tinh vi hơn không bị vướng bận một tác động nhỏ nào ; 7-Chánh Niệm : Luôn ghi nhận, tưởng niệm đến những điều chân chánh : hình ảnh hoàn mỹ của Đấng Giác Ngộ, âm thanh dẫn dắt giải thoát (Nam mô A Di Đà Phật, Omh mani padme hum,…), những việc làm tốt đẹp cho gia đình, cho xã hội,… ; 8-Chánh Định : Luôn giữ vững Thân Tâm thanh tịnh định hướng quán sát Chân-Thiện-Mỹ xác lập cảnh giới của sự an tịnh tuyệt đối -> hội tụ Hệ Tâm Thức được qui nạp về Tâm -> không còn bị tác động của Danh-Sắc-Hình-Tướng bám víu và níu kéo nữa -> thoát khỏi Luân Hồi.
*Quả Duyên Giác Thừa (Cõi của Tuệ Giác phát hoá thấu quán lý luân hồi) -> hoàn thành việc tu chỉnh Hệ Tâm Thức tựu hội về đúng với Tâm Thật cùng Vũ Trụ (Chân Tâm), Hệ Sinh học khai mở được Tuệ Giác thấu quán 12 nguyên lý tác động (Nhân) cùng sự kích hoạt (Duyên) tạo nên Luân hồi (Quả), gọi là Lý Thập Nhị Nhân Duyên : 1-Vô Minh : Sai lầm, Mê lầm,Thiếu hiểu biết, Thiếu nhận thức, cho nên không nắm rõ nguyên lý biến ảo của Tứ Diệu Đế ; -> 2-Hành : Do bởi Vô minh nên Hệ Tâm Thức sinh ra Động Tâm (Hành) -> Ly Tâm rời khỏi Tâm Thật (Chân Tâm) của Ta Hằng Như cùng Vũ Trụ Đại Đồng, làm sinh khởi vận hành Hệ Tâm Thức ngày càng biến động; -> 3-Thức : Hệ Tâm Thức vận hành bị kéo theo quán tính, làm khởi tạo nên Thức ; -> 4-Danh Sắc : Hệ Tâm Thức hình thành ra tương tác Sóng Hạt, tạo tác nên yếu tố Tinh Thần (Danh) và Tướng mạo của Thân (Sắc); -> 5-Lục Căn : Danh, Sắc tạo ứng cùng Lục Trần (Pháp, Xúc, Sắc, Thanh, Hương, Vị), tạo tác nên hình tướng của Lục Căn (Não, Thân, Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi) ; -> 6-Xúc : Lục căn bắt đầu tiếp xúc với Lục Trần dần và nhận lấy (Thọ) sự cám dỗ ; -> 7-Thọ : Lục Căn hình thành, đồng nghĩa với việc hoàn thành Hiệu ứng kết nối Sóng-Hạt do bởi sự tương tác Âm-Dương (Trứng Mẹ-Tinh Cha) hoàn thành nên Hệ sinh học, tức là nhận lấy (Thọ) tạo tác cùng Thai nhi (Khung cộng hưởng sinh học) tương ứng -> 8-Ái : Bị cuốn hút quyến luyến (Ái) trở nên yêu thích thế giới Danh Sắc; -> 9-Thủ : Ái lực cám dỗ bởi Danh, Sắc làm cho Hệ Tâm Thức cố bám giữ (Thủ) vào Thai nhi để thoả mãn; -> 10-Hữu : Hình thành nên (Hiện hữu) sự sống mới, tức Hệ Tâm Thức lúc bấy giờ đã hoàn toàn sở hữu hình tượng Hệ sinh học đầy đủ của mình ; -> 11-Sanh : Tiếp nối qui luật Nhân (Sở hữu Thai nhi)-Quả (Đời sống mới) đó là được sinh ra (Tái Sinh); -> 12- Lão Tử : Cuối cùng theo luật Vô Thường có Sinh tất có suy mòn, hoại diệt. (Lão, Tử). Tất nhiên, khi Tâm Thức đã thấu quán triệt để Lý Thập Nhị Nhân Duyên như đã dẫn, đồng nghĩa với sự giải thoát thành công hoàn toàn vòng lẫn quẩn Sanh-Tử-Luân-Hồi cứ mãi đeo bám ta do bởi Vô Minh gây nên đúng không? Đã thấu quán, tức Ta Đã Giải Thoát!
*Quả Bồ Tát Thừa (Cõi Tuệ Tâm ngời sáng cùng Trí Huệ Bát Nhã hoá dẫn phổ độ khắp muôn nơi) -> hoàn thiện pháp tu phát hoá Tâm Năng dẫn dắt Hệ Tâm Thức con người thoát khỏi 6 rào cản (Lục Độ) tạo nên chướng nghiệp (Tham lam, Sân nộ, Si mê, Loạn trí, Phá giới, Trì trệ) để đưa đến tận nơi, tận chốn (Ba la mật) bờ bên kia của sự an lành giải thoát. Pháp tu (phương pháp tu chỉnh sửa chữa Hệ Tâm Thức) đạt được sự phát hoá tâm năng như đã dẫn, gọi là Lục Độ Ba la mật. Năng lượng của Hệ Tâm Thức sau khi đạt thành Quả Bồ Tát, sẽ có công năng phát hoá bức xạ Phổ Năng lượng (Hào Quang) xuyên dẫn qua được 6 tầng thức luân hồi giúp đở (Độ Tha) các Hệ Tâm Thức ở các cõi nầy tu tập tiến hoá.
*Quả Phật Thừa (cõi của Trí Huệ Toàn Như Vô Không) à thiền quán thấu suốt lý Chân Không, Vô Thường, Vô Ngã khai mở được Trí Huệ Bát Nhã phát quán hoà hợp Hệ Tâm Thức đồng hoá các thức hội tụ về Chân Tâm cùng Vũ Trụ thành một Chân Thức Toàn Như.
E/-Pháp luận (Luận điểm về phương pháp tu chỉnh NLTT) TOTHA
Như đã trình bày ở phần mở đầu về 3 ý nghĩa trọng đại của cuộc hội thảo hôm nay, TOTHA đề cập cập đến Biến cố thế kỷ, đó là :
1/-Thiên tai : Hạn hán, Bảo từ, Cuồng phong, Bức xạ Vũ trụ, Sao băng,..
2/-Địa tai : Động đất, Lụt lội, Sóng thần, Núi lửa, Địa xạ, Ô nhiễm môi sinh,..
3/-Nhân tai : Bệnh lạ (Stress, Đột biến Tâm thức), Bạo lực ngày càng tăng, Đạo đức ngày càng suy đồi,…
Những biến động nêu trên sẽ góp phần kéo theo biến động Hệ Tâm Thức của muôn loài (Hữu hình và Vô hình) -> tất yếu sẽ tạo nên những xung đột nghịch pha Năng lượng Tâm thức -> mâu thuẩn, tranh chấp, bạo động -> Chiến tranh Tâm linh! -> xãy ra những sự việc khó lường trước là sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống!...Vì vậy giải pháp tất yếu để khắc phục vấn đề khó lường trước có thể xãy ra, đó là chúng ta hãy cùng Đồng Tâm với nhau thực hiện cuộc Cách Mạng Tâm linh với những ý nghĩa phân tích như đã nêu mà thôi!...
Để làm được điều nầy, việc trước tiên là ta hãy thực hiện cuộc CMTL nội tại của ta (hiện đang bị Năng Lượng Đen lấn át) bằng cách phát tâm Tu Tập (Tu chỉnh sửa chữa những sai sót và Tập luyện vượt qua) sao cho Năng lượng Tâm Thức của mình được cân bằng (thoát khỏi những bệnh tật, tham lam, tinh thần rối loạn, mê muội và những ràng buộc hữu hình lẫn vô hình khống chế). Sau đó tiến đến tinh tấn lên mức cao hơn đó là vận dụng Năng Lượng Tâm Thức phát hoá thông tin hiệu chỉnh sao cho Hệ Tâm Thức của ta cùng toàn thể cộng đồng được cân bằng hợp nhất đồng tâm cùng nhau thực hiện cuộc CMTL. Ta có làm được hay không?
Hiện nay Trái đất này đang bị biến động bởi Biến cố thế kỷ, cho nên chúng ta cần phải điều chỉnh lại cách thức tu tập (tu chỉnh và tập luyện năng lượng tâm thức) của chúng ta sao phù hợp với điều kiện tự nhiên tại thời điểm của hiện tại. Đó là chúng ta cần phải chuyển hóa một cách hợp lý chứ không cứng nhắc (biên kiến và thủ kiến) như cách tu tập trong một môi trường tự nhiên trong lành không ô nhiễm như cách đây khoảng vài thế kỷ!..Nghĩa là chúng ta phải nương theo cái động để chuyển dần về cái tĩnh theo như quĩ đạo xoắn ốc mà các bậc giác ngộ đã mã hoá thông tin đó là hình chữ Vạn lưu khắc giữa Khẩu và Tâm (Khẩu nghiệp hành vạn pháp, vạn pháp biến tại Tâm) luân chuyển sao cho Tâm thức của mỗi chúng ta dần định hướng về Tâm Chân như của Vũ trụ Đại Hằng bởi Tri Kiến và Tư duy nhận thức của mình sao cho việc tu tập của ta tránh bị sai đường lạc lối…Ta cần phải hiểu tu là gì ? có nghĩa là chúng ta hướng theo phương pháp tập luyện nào đó (các pháp môn) nhằm chỉnh sửa lại 3 yếu tố cơ bản đó là Trí-Tâm-Thể của mình sao cho các giác quan tiến tới sự cân bằng hoặc yên lặng và hợp nhất đồng thấu hiểu được nguyên lý của Vũ trụ thì giác quan thứ sáu ắt sẽ được khơi mở, tuỳ ứng theo căn cơ nhận thức của mỗi người trong mục đích tu tập : để đạt được một cái gì đó cho bản thân (danh,sắc,hình,tướng,..), có người thích về huyền năng hay thần thông, có người thích về sự yên tịnh, có người thích giác ngộ,…việc tu tập hiện nay không nhất thiết là phải vô chùa hay lên núi hay tự kỷ xa lánh cuộc đời, chối bỏ trách nhiệm với gia đình và xã hội để đi tu tạo nên đối cảnh Lao động-Nhàn cư!..liệu bạn có giác ngộ được điều cơ bản nầy hay không? Hay sẽ phải vướn nợ cưu mang của bá tánh trả sao cho hết...Ở nhà hay ở bất cứ nơi nào chúng ta đều vẫn có thể tu tập được cả, điều quan trọng đó là kết quả như thế nào mà thôi, mỗi ngày ta hãy nên dành ra từ 30 phút trở lên để quán xét Thân-Tâm nhằm chỉnh sửa lại những sai số vấp phải trong cuộc sống vô thường quá nhiều những tạp hợp ô trượt như hiện nay,.. càng biến động nhiều sẽ càng giúp ta có cơ hội thử thách công năng tu tập của mình thành đạt đến đâu phải không? chứ không phải ngồi mãi một chổ mà lý giảng đủ thứ mọi điều đến khi gặp phải nghịch cảnh của ta mình (Thân và Tâm mình) sẽ khó mà xoay trở…Cách tu chuyển hoá từ giả cảnh Lạc trần nhằm giải thoát Thân-Tâm đồng hoà nhập đến chân cảnh Cực lạc (Di Lạc) thoát khỏi tác động của môi trường giả hợp của danh sắc gây nên biết bao phiền não và vòng luân hối của Sinh-Lão-Bệnh-Tử ứng với chu trình chấn động xãy ra hiện nay tại địa cầu của chúng ta đã được dự báo (tiên tri) cách đây 2500 năm bởi bậc giác ngộ (Phật) thế hệ (đời) thứ 7 (Sáu đời trước là: 1-Tỳ bà Thi Thi Khí ; 2-Tỳ Xá Phù; 3-Câu Lưu Tôn; 4-Câu Na Hàm; 5-Mâu Ni; 6-Ca Diếp), Phật Danh Thích ca Mâu Ni, đó chính là hình ảnh chuyển hoá Tĩnh-Động (Pháp Ảnh) như sau :
Hình ảnh tu tập để đạt giác ngộ Hình ảnh tu tập để đạt giác ngộ phù hợp với
phù hợp với thời xưa (Thiền Tĩnh) thời nay (Tĩnh-Động hài hoà = Thiền Chuyển)
* Hình ảnh Di Lạc thể hiện cách tu chuyển hoá bởi cám cảnh của lục trần bằng cách mở mắt nhìn thẳng và Thân-Tâm cùng hoà nhập vào những tác động đa hướng của đời thường để từ từ tháo gở những ràng buộc, rồi sau đó mới dần dần chuyển hoá từ Động về Tĩnh một cách hài hoà phù hợp với quy luật của tự nhiên hiện nay…chứ không thể vận dụng một cách cứng nhắc theo cách tu cổ điển là nhiếp thiền thanh tịnh liền ngay được, bởi vì trong chu trình hiện nay tâm Trái đất của chúng ta đang biến động liên hồi, do đó chúng ta cần phải mở Tri Kiến và Tư duy của mình ra để mà nhận định đúng lẽ thật của tạo vật mà xoay chuyển cho hợp lý…Cuối cùng, kết quả của sự tu tập chính thực, đó là sự dẫn dắt sao cho Thân và Tâm của mỗi chúng ta đồng tiến đến sự hòa hợp cùng với Vũ trụ Chân-Thiện-Mỹ - cái thực hằng chân như và trường tồn vĩnh cửu cùng với cái Ta thật của mình (Chân ngã)…
F/-NHỮNG THỰC TẾ VỀ TÂM LINH
Ta xem lại mô hình Hệ Tâm Thức (tam giác TOTHA) đã thiết lập và giảng giải ở phần trên, giúp cho chúng ta rút ra nhận định cơ bản rằng : “Tất cả những xáo trộn của 7 phần tử (chủng tử) của Thức tất yếu sẽ tạo nên sự biến động Hệ Tâm Thức”. Nếu Hệ Tâm Thức được xác lập cân bằng, sẽ bức xạ ra một năng lượng, gọi là Năng lượng Tâm Thức kích hoạt nên những Hiệu ứng đặc biệt, gọi là Tâm Linh. Sự xác lập Tâm Thức xãy ra ở một trong những tình huống là :
1 - Hệ sinh học tu tập (tu chỉnh và tập luyện) đạt được
2 - Hệ sinh học được kích hoạt bởi Năng lượng Tâm Thức của Hệ sinh học khác (Sư phụ hoặc Đám Đông).
3- Hệ sinh học được kích hoạt bởi Năng lượng Tâm Thức của Sóng sinh học khác (bị điều khiển bởi Vô hình).
4- Hệ sinh học được kích hoạt bởi Năng lượng Địa linh (Địa linh sinh Nhân kiệt) hoặc vùng đất có địa từ trường cân bằng (Sinh khí) và năng lượng thông thoáng Năng lượng Thiên-Địa-Nhân (Long mạch).
5 - Hệ sinh học được kích hoạt bởi những thiết bị Huyền Không (máy Thu, Phát Vi Sóng) như : Linh Phù, Linh Vật, Bùa Chú,...tạo ra Hiệu ứng Sinh Hình học (BioGeometry Effect) mà tôi đã nói ở các tài liệu : Hiệu ứng Sinh học (năm 2000), Vũ trụ trong ta (tài liệu Video năm 2006), Lý giải các hiện tượng Tâm linh dưới góc nhìn khoa học tổng quan (tư liệu Hội thảo khoa học tháng 09 năm 2009)
6 - Hệ sinh học được kích hoạt bởi thiết bị khoa học kỹ thuật : sóng điện từ, bức xạ lượng tử, sóng âm thanh, sóng ánh sáng
7 - Hệ sinh học tự kích hoạt do bị chấn động sinh tử.
Khi một trong những phần tử của Thức của Hệ Tâm Thức được xác lập cân bằng => sẽ hình thành nên một Tâm Thức tương đối => Hệ sinh học sẽ có những khả năng đặc biệt như :
- Thấy được một số tầng thức Sóng sinh học, gọi là Thấu Thị. Ở một số loài vật như : Chó, Mèo, Chim cú, Chồn,…cũng có khả năng này.
- Nghe được một số âm thanh ở ngoài vùng (20Hz – 20KHz), gọi là Thấu Thính. Ở một số loài vật như : Dơi, Dán, Cá heo, Linh dương,…cũng có khả năng này.
- Ngữi được những mùi xa, lạ, gọi là Thấu Tỷ. Khả năng nầy hiếm gặp ở con người, phát triển đặc biệt ở một số loài vật như : Chó, Chuột, Chồn, Mối, Rệp, cá mập,…
- Đọc được tư tưởng, điều khiển được vật chất, dự báo sự việc, giao tiếp được với Sóng sinh học, chữa bệnh không dùng thuốc,…gọi là Thần Thông.
Về cách thức tu tập nhằm để đạt được những khả năng đặc biệt, cốt lõi nằm ở chổ tu tập 6 căn nguyên (Lục căn) chi phối, gây nên ảnh hưởng làm mất cân bằng Hệ Tâm Thức. Thí dụ :
*Luyện Nhãn căn :
Quán Tâm tập trung nhìn vào : Mặt trời, Mặt trăng, các Tinh tú, Biểu tượng tôn giáo, Nghịch cảnh (bỉ cực, man rợ, ghê rợn).
*Luyện Nhĩ căn : tập trung lắng nghe âm thanh êm dịu, ghê rợn
*Luyện Khẩu căn :
Quán Tâm tập trung tinh thần chú trọng tuyệt đối (Thần Chú) và thực hiện :
- Đọc lên những âm thanh tín ngưỡng : Omh Mani Padme Hum, Omh, Shohm, Aum,..
- La hét, ca hát, múa may quay cuồng quanh biểu tượng tôn giáo
*Luyện Thể (Thân) căn :
- Hành xác ngoài mưa, nắng, giá rét, tuyệt thực, tuyệt dục,...
- Trú ẩn nơi kín đáo (hang động, núi non, rừng sâu, nghĩa trang).
- Ăn uống những chất bổ quý hiếm, ăn ớt, dùng dược phẩm kích ảo.
- Tụ tập lễ hội, cúng bái, lên đồng.
- Kích hoạt tình dục đến cực điểm (thái dục).
Nhận xét :
*Thiền Động => kích thích cân bằng tương đối => có tác dụng nhất thời, chỉ đạt được Thần Thông thoả mãn cùng bản ngã, không giải thoát được Luân Hồi.
*ThiềnTĩnh => trở về với Tâm cân bằng tuyệt đối => có tác dụng lâu bền, tuỳ pháp tu và công năng tinh tấn có thể giúp tiến hoá đến Huệ Thông viên mãn cùng chân ngã, giải thoát được Luân Hồi.
۞ Hoà Thức →Tựu Thức → Vô Thức :
Trong vấn đề tập luyện khai mở giác quan thứ 6, đồng nghĩa với sự khai mở Năng lượng Tâm Thức. Đây chính là nguồn dữ liệu vô cùng quan trọng mà thiên nhiên đã lập trình sẵn cho muôn loài - nó tàng ẩn một sức mạnh rất lớn khi được khai mở - nhằm giúp cho muôn loài chiến thắng được luật vô thường để dẫn hướng trở về cùng với Vũ trụ toàn năng khi ta tu tập tiến hoá, tức là tìm ra được cái Tâm thật (Chân Tâm) như đã phân tích ở trên. Chân Tâm sẽ xuất hiện khi tất cả các Thức không còn bám víu lấy ta nữa (Vô Thức), Muốn đạt được đều nầy, việc khởi đầu là chúng ta phải tu tập (tu chỉnh và tập luyện) sao cho các Thức đều cùng hoà hợp cân bằng (Hoà Thức) để hoá giải mọi tác động của ngoại thức (hữu hình lẫn vô hình), tức là Hệ Tâm Thức chúng ta được cân bằng, bước kế đến là tựu hoà cùng Tàng Thức (Tựu Thức) để hoá giải mọi tác động của nội thức (nghiệp lực). Sau khi tất cả những can nhiễu (Hiện nghiệp và Tiền nghiệp) bám quanh Hệ Tâm Thức đã bị triệt tiêu hoàn toàn, thì lúc này Năng lượng của Hệ Tâm Thức sẽ được tựu hướng về đúng với cùng với Chân Tâm, tức là các Thức tạo nên bởi sự tương tác của Ewi và Ebi (Giả cảnh lạc trần) sẽ không kích hoạt gây chi phối đến ta nữa (Vô Thức), Chúng ta lưu ý hiểu rõ ràng ý nghĩa của 2 chữ Vô Thức trong quá trình tu tập khai mở, để không bị trả giá do bởi sự ngộ nhận sai lầm gây ra những sự cố đáng tiếc. Đó chính là sự Đột biến Tâm Thức!...
Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục hơn những người thường như khả năng nói chuyện với người chết, khả năng theo dõi con người, tiên đoán tương lai, biết được quá khứ của một thực thể nào đó v.v. Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu khả năng ngoại cảm của con người, chúng ta cần lưu ý những trường hợp như sau :
- Khả năng ngoại cảm bản chất là sự bức xạ tương tác năng lượng tâm thức (năng lượng sóng sinh học), vì vậy độ chính xác cần phải thoả mãn các điều kiện : sức khoẻ + sự tập trung của nhà ngoại cảm + tương tác đồng pha cùng đối tượng (đức tin cùng nhau). Do đó khi kết hợp đối nghiệm cùng với thực tế, sẽ có vài trường hợp khiến cho việc thu,phát thông tin của nhà ngoại cảm bị dẫn đến sai lệch bởi lý do họ làm việc nhiều quá tải, làm cho năng lượng sinh học bị hao hụt là điều tất yếu, hoặc trường hợp do người tiếp xúc gây bức xạ nhiểu (sự ngờ vực, đánh đố, không thành tâm..) tạo ra thông tin không đồng bộ,... Do đó, không vì một vài sự cố nhỏ nầy ta vội vàng kết luận một cách hẹp hòi là phủ nhận hoàn toàn khả năng của họ, xét lại chính bản thân ta trong đời thường có đôi lúc ta cũng bị mâu thuẩn với chính ta mà, những nhà ngoại cảm trong đời thường cũng là những con người như chúng ta mà thôi chứ không phải là thần thánh cao siêu gì mà bắt họ phải tuyệt đối đúng 100%.
- Khả năng ngoại cảm bản chất là sự bức xạ tương tác năng lượng tâm thức (năng lượng sóng sinh học), mỗi cá thể sinh học đều có khả năng bức xạ thu, phát thông tin năng lượng nầy với độ chính xác cao, thấp tuỳ vào hệ số tựu trung (tựu hoá + tập trung) của tinh thần của mỗi chúng ta, sự tựu trung cao, thấp là do : tu tập (tu chỉnh và tập luyện sao cho các giác quan sinh học cùng tựu hoá về tâm), sự tác động của người có công năng khai mở, sự tác động của nghịch cảnh (bệnh tật, tai nạn) khiến cho hệ sinh học ngẫu nhiên tựu trung tinh thần đấu tranh mãnh liệt cùng với sự sống còn của chính mình...Do đó khả năng ngoại cảm đều tiềm ẩn sẵn ở mỗi con người chúng ta, khi đã khai mở sẽ giúp cho ta có được trực giác nhạy bén hơn, dự báo được sự việc, định vị được Không-Thời gian (tìm mộ, soi căn), phát hoá năng lượng vi sóng (chữa bệnh từ xa, thôi miên, giao tiếp cõi âm), nhắc lại những khả năng trên đều ẩn chứa sẵn trong tất cả chúng ta nếu được kích hoạt đúng sẽ khai mở..., vì vậy không vì những khả năng đã được khai mở đó mà ta bị cuốn theo (si mê) và tôn thờ (tín nhiệm) họ như một bậc thánh thần họ phán sao là ta nghe vậy...ví như ở một số loài vật như : loài cừu có khả năng dự báo động đất, một số loài chó, mèo (trong dân gian gọi là linh khuyển,linh miêu) có khả năng thấy được sóng âm hoặc dự báo sự cố cho chủ nhà trước khi xãy ra sự cố chúng thường phát ra tín hiệu như : kiêu lên những âm thanh lạ, bám sát lấy chủ nuôi...Đối chiếu tương tự với khả năng ngoại cảm của các loài vật trên cũng dự báo (mách trước) một số sự cố cho con người, và không chính vì những khả năng đặc biệt đó mà ta tôn sùng các loài vật nầy một cách mê tín đúng không? Sở dĩ những giác quan của chúng nhạy bén hơn loài người là do bộ não của chúng không bị chi phối quá nhiều những tạp nhiễu của bao sự mưu toan tính toán làm rối Thể Trí của con người làm cho nó không hội tụ về tâm được, dần dần gây nên độc tố Tham-Sân-Si làm cho ta bị mù, bị điếc, bị u tối khi nhận thức về những thông tin vi sóng chính là như vậy đó...Mặt khác, với những nhà ngoại cảm không vì những khả năng đặc biệt của mình mà sinh ra những tư tưởng lập dị, thần thánh hoá về mình, truyền bá những điều mê tín, tiêu cực, dị đoan... Xét theo quy luật bảo toàn năng lượng, không có cái gì là vĩnh cửu cả, năng lượng sử dụng nhiều thì phải bị tiêu hao theo thời gian là lẽ tất yếu mà thôi, cho nên khả năng ngoại cảm rồi đến một thời gian nào đó phải bị suy giảm nếu ta không chịu khó bổ sung (tu tập), do đó các nhà ngoại cảm cần phải cố gắng tu chỉnh (Chánh tinh tấn) năng lượng tâm thức của mình ngày càng tiến hoá hơn (Chánh Tri Kiến), Trí, Tâm luôn hướng về điều tốt đẹp cao cả (Chánh tư duy), thành tâm góp sức cùng khoa học nghiên cứu phát triển giúp ích cho cộng đồng xây dựng xã hội ngày tốt hơn...
*Đối nghiệm những khả năng đặc biệt đã được Công ty TOTHA kiểm chứng :
Anh Nguyễn Tư Anh Đoàn Việt Tiến Chị Hồ thị Hai
- Tại Ấn độ, nhân vật Saibaba được tôn sùng là thánh sống, ông ta có nhiều huyền năng : biến hoá vật chất, chữa bệnh tâm linh, tiên tri...
- Tại Châu âu, nhân vật Geller gốc Israels có khả năng : di chuyển đồ vật, làm biến dạng kim loại bằng ý nghĩ...
- Tại Nga, nhân vật Nina có khả năng : dịch chuyển đồ vật, làm kim đồng hồ, la bàn quay nguợc bằng ý nghĩ...
- Tại Nga, nhân vật Juona có khả năng chữa bệnh nhanh bằng năng lượng phát ra đôi tay
- Tại Nga, nhân vật Kashpirovsky có khả năng thôi miên số đông chữa bệnh từ xa..,
- Tại một số nước Đông Nam á, có một số nguời có khả năng xuyên vật qua da hoặc dùng tay phẩu thuật kích hoạt bởi năng lượng tâm thức...
Tại Việt Nam :
- Anh Nguyễn Tư có khả năng : tìm mộ bằng ngoại cảm, chữa bệnh tâm linh, đâm kim qua da không chảy máu, đặt giữ yên quả trứng trên đầu vật nhọn, trên mặt phẳng gương.
- Anh Đoàn Việt Tiến có khả năng : vẽ vô thức, thu/phát sóng năng lượng tâm thức bức xạ kích hoạt qua trường năng lượng âm thanh, giải mã thông tin năng lượng Hệ sinh học, chữa bệnh tâm linh, tìm mộ bằng ngoại cảm.
- Chị Hồ thị Hai có khả năng : kích hoạt thu/phát thông tin Sóng sinh học (gọi hồn, áp vong), chữa bệnh tâm linh.
KẾT LUẬN :
Mong rằng những kiến thức đóng góp của Công ty Khoa học Năng lượng Tâm thức TOTHA cho cuộc hội thảo sẽ góp phần giải tỏa bao nỗi hoài nghi về những hiện tượng tâm linh huyền bí, thực chất đó chính là Hiệu ứng sinh học do tương tác giữa Sóng sinh học và Hệ sinh học tạo nên…và những pháp tu trong các trường phái tôn giáo, thực chất đó chính là việc dò tìm con đường (Đạo) quay trở về (Chánh giáo) hoặc tách xa (Tà giáo) nguồn cội của muôn loài, đó chính là Vũ Trụ Toàn Như Chân-Thiện-Mỹ. Tất cả đã được lý giải rõ ràng trên nền tảng của Khoa học Tâm thức và chúng ta hãy cùng nhau nối mạng tri thức ngày càng vững vàng hơn, cùng kết hợp cộng đồng tạo điều kiện phát triển những khả năng đặc biệt tiềm ẩn trong mỗi con người chúng ta (theo hướng tích cực) ngày càng rộng rãi hơn, nhằm giúp ích cho đất nước ngày càng tốt hơn,văn minh hơn và hạnh phúc hơn, một xã hội loài người luôn định hướng tâm thức theo quĩ đạo Chân-Thiện-Mỹ {Chân ngã} nhằm khắc phục Biến cố thế kỷ (Thiên tai, Địa tai và Nhân tai) đã và đang xãy ra hiện nay-- mầm móng của sự khởi phát Chiến tranh tâm linh đe doạ tính tồn vong của sự sống trên Trái đất…Thân ái kính chào đoàn kết.(Xem phim)
Xem tiếp 3
|