Hay tổ sư Bồ Đề Đạt Ma cũng dạy “Muốn tìm Phật hãy tìm tâm, tâm là Phật, không có Phật ngoài tâm, Phật lấy ở ngoài tâm, hình dung Phật ở bên ngoài chính là mê sảng. Phải tự lắng mình vào mình và phải tự nhìn thấy Phật tánh ở nơi chính mình. Tất cả chúng sanh đều là Phật như mình, không có thiện không có ác mà chỉ có động tác của tâm”.
Hay trong kinh Kim Cang Đức Phật dạy :
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”.
Dịch nghĩa :
Nếu ai tìm ta bằng sắc tướng
Cầu ta bằng tiếng tăm
Ấy là người hành sai đạo
Không thể thấy ta đặng.
Rõ ràng từ Đức Phật đến Chư Tổ được ấn chứng (được truyền y bát) cũng đều dạy chúng ta tu tập phải nhìn vào trong tâm mình để mà thấy tánh, chưa thấy ai dạy mình hướng ra bên ngoài để mà tìm Phật, cầu Phật, thế mà xu hướng hiện nay thì phải thờ Phật, lễ Phật, tán dương Phật thì mới có công đức. Lúc trước chưa hiểu em cũng đã từng vướng vào việc lễ lạy Phật. Có lúc lạy Phật từ 11h đêm đến 5h sáng trong vòng 6 tiếng mà lạy đến 1200 lạy, tay chân nhức mõi rã rời nhưng cũng cố gắng để hoàn thành để được chư Phật Bồ Tát gia hộ để có công đức…công phu suốt thời gian dài điều em gặt hái được chỉ là những mệnh lệnh thi hành ngũ giới, giáo pháp thì mù mờ giữa chánh/tà. Sau khi học tại Totha, hiểu đươc những lời dạy của Đức Phật và chư tổ dạy, em thấy lúc trước mình đã không hành theo lời dạy của Đức Phật và chư tổ.
Truyền thống gia đình xã hội hiện nay là phải thờ Phật lễ lạy Phật thì chúng ta cũng nên hòa đồng, nhưng nên lựa chọn những tượng Phật đơn giản hài hòa để thờ, lễ Phật cũng nên lựa chọn những ngôi chùa thờ ảnh tượng đơn giản hài hòa không tô son, màu sắc lòe loẹt để cảm thụ chúng ta được hài hòa không bị rối rắm bởi sắc tượng, người trụ trì ngôi chùa đó phải tốt . Có lễ lạy thì cũng vừa phải, không nên lạm dụng quá mức. Thay vì hướng ra bên ngoài cầu Phật, tìm Phật thì ta nên hướng vào tâm mình, phải thường xuyên quán chiếu để chỉnh sửa bản thân mình, không được gián đoạn. Qua mỗi công việc, sự việc, mỗi hành động của mình ta phải rà sát lại, xem lại mình đã làm đúng chưa, có làm điều gì sai không, nếu còn sai thì ta nên hướng vào tâm để sám hối và cố gắng lần sau làm tốt hơn, không tái phạm nữa. Ta phải quán chiếu lại 3 tọa độ thân khẩu ý của mình, xem lại thân mình có còn gây tạo nghiệp nữa không, khẩu mình có còn nói dối không, có còn nói lời thô ác không, mình có nói lời tốt đẹp mang lại lợi ích thiết thực cho mọi người chưa. Khi thân, khẩu mình không còn tạo nghiệp nữa thì ý mình có còn khởi ý xấu không và rà soát lại mức độ nhẫn thân, nhẫn khẩu, nhẫn ý của mình đến mức độ nào và xem lại mình đã hòa đồng với mọi người chưa và đã hòa với vạn pháp chưa và xem lại Thân – Thụ – Tâm – Pháp của mình đã hài hòa chưa, đã làm chủ được tất cả các giác quan chưa.
* Pháp bảo theo Phật học nguyên thủy là: Nhận ra chư Pháp không tướng còn quan điểm hiện nay là tôn thờ giáo pháp.
Thay vì hiểu đúng nghĩa giáo pháp giác ngộ là chiếc bè là phương tiện, là bản đồ giúp người tự chống chèo thoát khỏi biển sanh tử luân hồi thì cách hành trì theo xu hướng hiện nay là bám chặt tôn thờ, sùng kính giáo pháp, thuần thục đủ thứ nghi thức cúng bái, vái lạy sắc tượng, càng ngày càng tự trói buộc mình vào vòng ái lực danh sắc dẫn đến mê tín dị đoan, thì làm sao có thể tự giải thoát cho mình được. Như trong kinh Đức Phật dạy:
“Hỡi các tỳ kheo, ngay cả quan điểm giải thoát minh bạch và rõ ràng như thế, nhưng nếu các ông bám chặt vào đó, nếu các ông quí chuộng nó, nếu các ông cất giữ nó, thì vậy là các ông đã không hiểu rằng giáo lý chỉ như một chiếc bè, cốt dùng để qua sông chứ không phải để mà ôm giữ lấy”.
Đức Phật dạy giáo lý chỉ là phương tiện, là chiếc bè dùng để qua sông, khi ta qua được sông rồi thì ta phải buông bỏ chiếc bè để mà đi tiếp chứ không phải mang chiếc bè trên lưng mà đi tiếp, chánh pháp mà còn buông bỏ huống chi là tà pháp
* Tăng bảo theo quan điểm hiện nay : Tôn thờ Tăng Ni, xem Tăng Ni là người hy sinh cả cuộc đời phụng sự tam bảo, phụng sự chúng sanh nên cần bù đắp cho Tăng Ni phụng sự tăng ni.
Trong kinh Vị tằng hữu thuyết nhân duyên, trang 111 Đức Phật dạy : “Luận người làm đạo như cầm dao bén, như bưng chén thuốc độc, nếu người nào không kham nổi chi bằng đừng làm tốt hơn, vì sao? Vì giữ gìn giới không tinh tấn thì trở lại hại mình, thà cắt thịt mình dùng để nuôi miệng còn sướng hơn dùng tâm tà thọ người cúng thí, khó lắm ! Khó lắm ! Cẩn thận ! Cẩn thận!”. Đức Phật dạy người làm đạo giữ gìn giới không tinh tấn thì trở lại hại mình. Vì vậy ta phải trí kiến, tư duy xem vị Tăng Ni đó đã giữ giới tinh tấn chưa giảng pháp có đúng không thì ta mới nên nghe theo để học hỏi còn nếu vị Tăng Ni đó giữ giới chưa tinh tấn giảng pháp sai thì ta không nên nghe theo, vì nghe theo chỉ thêm hại mình mà thôi chứ không ích lợi gì. Những vị giữ giới không tốt, giảng pháp sai mà lợi dụng nhận của cúng dường đàn na tín thí thì chắc chắn sau này sẽ tái sinh trở lại để trả nợ.
Trong kinh hoa nghiêm nói “chẳng phải chúng sanh thỉnh Phật nói pháp, chính Phật vì thương chúng sanh mà làm bạn không thỉnh”
Ngay cả Đức Phật cũng chỉ xem mình ngang hàng với chúng sinh, là bạn của chúng sinh. Thế nhưng có những vị tu tập chưa đến đâu, pháp giảng còn sai mà để mọi người lễ lạy mình, sùng bái mình, phụng sự mình thì thật là tội lỗi.
Lúc Đức Phật còn tại thế, ngài rất chú trọng việc kết nối đoàn thể nhằm giúp cho mọi người nhận ra một cách đúng đắn về chân lý của vũ trụ, đó chính là sự bình đẳng không phân biệt giai cấp lớn nhỏ, tôn tạo hình thức trong tu tập..
“Với lẽ thật trong vũ trụ, chúng sanh sanh ra bởi do nhân duyên chuyển níu, chẳng đầu đuôi, cả thảy đều là bố thí cho nhau chan sớt chia sẽ cho nhau, đan xin lẫn nhau, mới có cái sống biết và sống biết tu học, vì thế mà ai ai cũng đều là khất sĩ cả, kẻ giác ngộ tri thức mới thấy ra cái chân lý ấy. Kìa chúng sanh đang xin với cỏ cây nước, đất, thú người trời, tất cả đều xin cả, xin lẫn nhau, hiểu đến lẽ xin học thì thấy rõ chân như ngay”.
Trong kinh A Hàm Đức Phật dạy chúng ta tu tập phải nương tựa vào chính mình, lấy mình làm hòn đảo để nương tựa và nương tựa vào giáo pháp chứ không nương tựa vào ai khác, không nương tựa vào Phật, không nương tựa vào Tăng Ni.
“Hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, hãy lấy chính mình làm nơi nương tựa, không nương tựa vào ai khác, hãy lấy Phật pháp làm hòn đảo, lấy Phật pháp làm nơi nương tựa không ai khác có thể làm nơi nương tựa cho chính mình”.
Lúc Phật sắp Niết Bàn, đại chúng đưa vấn đề làm sao để cho Phật pháp tồn tại lâu dài ra thưa hỏi Thế Tôn.
+ Thứ nhất : Thế Tôn Niết Bàn rồi lấy ai làm thầy ?
+ Thứ hai : Sau khi Phật Niết Bàn, an trụ như thế nào?
+ Thứ ba : Làm sao hàn phục được kẻ ác (trong lẫn ngoài tăng đoàn).
+ Thứ tư : Khi kết tập kinh điển làm sao mọi người có thể hiểu đúng và tin? Đức Thế Tôn an nhiên như thường lệ, từ bi vui vẻ trả lời. Các ông nhớ kỹ, các ông nên :
+ Y theo giới luật làm thầy
+ An trụ trong tứ niệm xứ.
+ Gặp người hung ác mặc tẫn (im lặng) lánh đi.
+ Căn cứ theo tứ y pháp, tam pháp ấn để hiểu đúng, đầu đề kinh tất cả đều ghi “Như thị ngã văn” sẽ khiến người tin được. Các ông nên làm đúng như pháp, pháp là nơi thường trụ của pháp thân ta.
+ Tứ y pháp :
1- Y pháp bất quy nhân : đúng pháp chứ không bị cuốn theo người
2 -Y lý bất quy luận : đúng chân lý chứ không bị cuốn theo đủ thứ luận điểm xa vời thực tế
3- Y liễu nghĩa bất quy huyễn nghĩa : đúng nghĩa chính rõ ràng là sự cứu cánh giải thoát chứ không bị cuốn theo nghĩa hảo huyền tôn tạo
4-Y trí bất quy thức : đúng với trí sáng suốt nhận ra lẽ thật của vạn pháp chứ không bị cuốn theo những hình thức bề ngoài.
+ Tam pháp ấn :
1- Chư hành vô thường ấn
2 – Chư pháp vô ngã ấn
3 – Niết bàn : Tĩnh tịnh không
Đức Phật dạy : Chúng ta phải y theo giới luật làm thầy chứ không theo ai khác chỉ có người giữ đúng giới luật thì mới giữ được đạo. Lúc Đức Phật nhập Niết Bàn ngài Ma ha ca Diếp đã ngoài 100 tuổi, là người lớn tuổi nhất trong 10 đại đệ tử của Đức Phật nhưng vẫn được chọn làm tổ thứ nhất. Vì Ma ha ca Diếp là người khổ hạnh đệ nhất, chỉ có người giữ đúng giới luật thì mới giữ được đạo.
Chúng ta cùng xem qua những nhận định của Hòa Thượng Tuyên Hóa về việc xây chùa, miếu, lễ hội, việc hộ tăng ... hiện nay
Tôi muốn nói lời thật
Không sợ bị đánh, chửi
Giết tôi, tôi chẳng sợ
Giải thoát có gì ngại ?
« Giáo nghĩa căn bản của Đức Phật là giáo dục, làm cho tất cả chúng sanh đều có trí huệ, có trạch pháp nhãn, biết nhân biết quả, đoạn ác tu thiện ; chứ chẳng phải một mực chú trọng về việc xây dựng chùa miếu, thờ cúng phức tạp, bám víu muôn hình tướng, tổ chức nhiều pháp hội… »
Phật pháp chưa diệt, Tăng tự diệt
Muôn đời ngũ trược nên tươi sáng
Đạo đức cần tu chẳng ai tu
Chúng sanh tĩnh hẳn ba lần mê
Thành thật chân chánh bị chế diểu
Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ
Gian ngoa xảo trá được tán dương
Chấn hưng Phật giáo cậy Tỳ Kheo.
Suốt đời tôi không bao giờ muốn tham gia chạy theo các lễ hội : tụng kinh, sám hối, phóng diệm khẩu, thủy lục không, bởi tôi không đủ đức hạnh, đạo không đủ để cảm động người, đức không đủ để giáo hóa người. Chính mình còn chưa siêu độ được mình, thì làm sao siêu độ các vong hồn, cho nên tôi không dám to gan đến thế.
Người xuất gia sống một mình một chùa, xưng vương xưng bá, làm vua một cõi. Người tại gia do thiếu trạch pháp nhãn nên đi theo hộ pháp cho họ, hộ tới hộ lui hộ luôn xuống địa ngục. Vào thời kỳ chánh pháp, tất cả đại chúng đều sống chung trong một đại tùng lâm của chùa và cùng nhau dụng công tu Đạo. Song, vào thời kỳ mạt pháp, người ta lại không thích nếp sống của Đại Tùng Lâm nữa. Mỗi người ở một chùa riêng, ông theo cách của ông, tôi theo cách của tôi, khiến cho người tại gia trở nên hoang mang, bối rối. Họ thấy ông sư này tướng mạo trông đẹp đẽ bèn hộ pháp cho ông ta, xây chùa riêng cho ông ta trụ trì. Rồi sau đó lại thấy một vị sư khác cũng không tệ lắm, họ lại xây cho vị đó một ngôi chùa nữa. Hộ tới hộ lui, rốt cuộc là làm cho những người xuất gia sanh lòng tham danh hám lợi đến nổi phải hoàn tục.
Do đó người xưa có câu : « Hổ ly sơn hổ bại, Tăng ly chúng Tăng tàn » Chính Tăng Đoàn tạo duyên tu tập thanh tịnh giúp giữ gìn giới luật.
Chúng ta hãy xem qua lời dạy của ngài Lục tổ Huệ Năng về ý nghĩa cúng dường một vị Phật trong (PBĐK. Trang 81)
« Chư thiện tri thức. Chúng sanh trong tâm mình là lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ganh ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi là chúng sanh » Khi ta chuyển hóa một tư tưởng làm cho nó hết phiền não, trở nên thanh tịnh, đó là ý nghĩa của « cúng dường một vị Phật » vì đã đưa một chúng sanh đang từ phiền não, đau khổ đến bờ giải thoát. Mỗi kiếp sống, mỗi người chúng ta đều có vô lượng phiền não cần phải độ cho hết, nên gọi là « cúng dường vô số ức Đức Phật » để cuối cùng người cúng dường đó cũng được thành Phật.
Theo quan điểm hiện nay quy y là quay đầu trở về. Dùng từ quay đầu trở về nghe nặng nề quá. Nếu dùng quay đầu trở về áp dụng cho ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề thì không hợp lý, các ngài là người thông minh cực kỳ. Như Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên sấp xỉ tuổi Đức Phật và tu trước Đức Phật. Lúc Phật chưa thành đạo thì ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đã có vài trăm người theo học đạo, nên dùng từ quay đầu trở về trong trường hợp này thì không hợp lý. Các ngài nương tựa vào giáo pháp giác ngộ của Đức Phật để hiểu hơn về phương pháp tu tập. Sau khi qui y các ngài còn giúp Phật rất nhiều trong việc truyền bá giáo pháp. Quay đầu trở về là chư tổ muốn đốn ngộ đối với những người tội ác nặng nề như tướng cướp kỹ nữ.
Theo quan điểm Totha thì qui y là : thực hiện đúng theo 3 điều hằng tâm, 3 hoài bão.
* Từ thời Lục Tổ Huệ Năng, cách chúng ta hơn 1300 năm, lúc này chánh pháp vẫn còn được truyền, Lục Tổ là người cuối cùng được truyền y bát, nhưng người ta đã hiểu nhầm ý nghĩa Tam Bảo rất nhiều nên Lục Tổ mới giảng lại ý nghĩa Tam Bảo. Lục Tổ đã tế nhị hoán đổi ý nghĩa Tam Bảo là : Giác – Chánh – Tịnh.
+ Giác : Tu tập hướng về sự giác ngộ (Phật) .
+ Chánh : Hiểu đúng chánh pháp º Phật học nguyên thủy là nhận ra được chư pháp không tướng .
+ Tịnh : Sự trong sạch (trong đoàn thể phải trong sạch hòa đồng, đoàn kết với mọi người để cùng phát triển º PHNT là thấy được chúng sanh đồng thể tánh).
* Chúng ta hãy xem qua quan điểm về qui y của pháp sư Tịnh Không là người tu tập chân chính hiện nay, được nhiều người biết đến
* Nếu có người hỏi bạn đã quy y chưa ? "Bạn trả lời tôi đã quy y rồi. Quy y vị pháp sư nào? Quy y Phật A Di Đà đại pháp sư. Tôi là đệ tử của Phật A Di Đà. Ai chứng minh cho bạn? Pháp sư Tịnh Không chứng minh cho tôi. Nói điều này hoàn toàn chính xác không nên nói tôi quy y pháp sư Tịnh Không hay riêng cá nhân nào. Đó là điều sai lầm vô cùng lớn, trước đây lúc tôi truyền trao tam qui thường giảng, chúng ta quy y Tam Bảo không phải quy y cá nhân nào. Quy y cá nhân nào tức là đem Tăng đoàn của Phật Pháp phân hóa, đây là sai lầm rất nặng. Nếu y theo giới kinh kết tội thì đó là phá hòa hợp Tăng, đọa A Tỳ địa ngục cho nên Pháp sư chứng minh Tam quy làm đại diện cho tăng đoàn truyền trao tam qui, vì chúng ta mà chứng minh. Từ đàn kinh mà xét tam quy ít lắm cũng bị hiểu lầm hơn 1000 năm, điều này cần phải biết rõ chúng ta mới có một lối đi chân chính".
- Pháp sư Tịnh không nói rất rõ ràng, cá nhân một vị tăng ni chỉ là người đại diện cho Tăng đoàn làm chứng cho việc quy y Tam Bảo. Thế nhưng có nhiều vị tự đứng ra tổ chức quy y, ký tên cấp bằng quy y. Có người sau khi quy y chẳng thấy chỉnh sửa thân tâm mình, trong phần qui y có nêu qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng rồi sẽ không bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, chúng ta phải nên nhớ rằng sau khi qui y rồi ta phải hành theo lời dạy của Đức Phật, phải chỉnh sữa thân tâm thì mới không bị đọa vào 3 đường ác còn nếu ta vẫn hành ác pháp và nghĩ rằng mình đã qui y rồi sẽ không đọa vào 3 đường ác thì sai hoàn toàn. Thời bây giờ người ta quá coi trọng bằng cấp trong việc tu học nhiều người coi tấm bằng quy y là bằng chứng mình là đệ tử của Phật, người chưa quy y là người đi chùa ké, đi chùa lậu chưa phải là đệ tử của Phật. Có một số vị nhận đệ tử xuất gia chỉ nhận những người có bằng tốt nghiệp 12 trở lên vì muốn học đại học Phật học thì phải có bằng tốt nghiệp 12. Tu tập như vậy là đã không làm đúng theo lời Phật dạy, còn phân biệt đối xử và chưa thấy được “chúng sanh đồng thể Tánh” Thử hỏi những vị Tăng (gọi đúng theo nguyên thủy là Sadi, âm Hán Việt là Sải) Ni đó chắc gì căn cơ cao hơn những người không có bằng cấp, chẳng qua người ta chưa có điều kiện học Phật, căn cơ người ta còn ẩn. Như Lục Tổ Huệ Năng là vị tổ thứ 6 không hề biết chữ vẫn được Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn truyền y bát làm tổ kế thừa, hay là ngài Ưu Ba Li một trong mười đại đệ tử của Đức Phật, xuất thân từ giai cấp nô lệ không hề biết chữ nhưng ngài là người chứng quả Alahán nhanh nhất trong số đệ tử của Đức Phật.
Em có đọc trên mạng bài viết của một sư cô thú nhận về việc tu tập của mình, sư cô này đã ngoài 50, đã xuất gia tu tập được mấy chục năm và có rất nhiều bằng cấp. Bằng cao nhất của cô là tiến sĩ Phật học, cô đã từng đi giảng rất nhiều nơi, nhưng cô thú nhận là cô rất mơ hồ trong công phu tu tập giác ngộ của mình. Cô nhớ lại cha mẹ mình lúc trước chỉ là người buôn bán nhỏ ở Chợ Lớn, không được học hành nhiều, nhưng may mắn đến cuối đời cha mẹ cô được người ta chỉ cho là cố gắng niệm Phật A Di Đà đến nhất tâm bất loạn thì lúc lâm chung sẽ được về cảnh Tây Phương Cực Lạc, cha mẹ cô buông bỏ tất cả chỉ chuyên tâm một lòng niệm Phật, đến 2, 3 năm sau cha mẹ cô biết trước được ngày giờ mất và ra đi rất nhẹ nhàng, lúc đó cô còn nhỏ và chưa đi xuất gia. Cô giật mình nhìn lại mình đã học vị rất cao, bằng cấp rất nhiều, đi giảng đạo cho nhiều người mà việc công phu tu tập thì rất mơ hồ nên cô rất hổ thẹn. Cố quyết định dừng hết việc đi dạy và công việc của mình để tập trung công phu cầu giải thoát. Đọc qua câu chuyện của sư cô này em càng hiểu sâu sắc hơn về lời dạy của Đạt Ma Sư Tổ
“Người nào cho dù giỏi nói 12 bộ kinh mà không thấy Tánh vẫn là ma nói”.
Hay trong kinh Lục Môn tr 130 - "Phật trước Phật sau chỉ nói pháp truyền Tâm, ngoài ra không pháp nào khác. Nếu thấy rõ pháp ấy thì phàm phu ngu dốt không biết một chữ cũng vẫn là Phật ”
Từ Đức Phật đến Chư Tổ đều dạy chúng ta tu tập phải nhìn vào tâm, phải hướng vào trong chứ không ai dạy chúng ta hướng ra bên ngoài để mà tìm Phật cầu Phật. Tu thì phải đi từ cái gốc ban đầu, Phải tuân thủ theo lời dạy chính qui của Đức Phật thì mới không bị sai đường lạc lối, còn ta tu theo cái ngọn (Phật giáo biến tướng) biến ra đủ thứ cành lá sum xuê, hoa quả thì ta sẽ nhận vào lục thức của mình đủ thứ hình thức làm cho tâm thức chúng ta ngày rối loạn thêm thì chỉ uẫn phí công phu tu tập một đời. Tu Phật thì ta phải thực hành theo chánh pháp của Đức Phật và Chư Tổ chính quy (được truyền y bát) thì mới không bị sai đường lạc lối. Còn thực hành theo những người khác thì không đảm bảo mình đã đi đúng đường. Phật giáo Ấn Độ đến thế kỉ thứ 4 đã bị suy giảm dần và đến thế kỷ thứ 7 thì bị quên hẳn, người ta không còn nhớ đến đạo Phật và bị Balamôn giáo đồng hóa nên ta phải có trí kiến, tư duy nhận ra đâu là Phật giáo nguyên thủy và đâu là Phật giáo biến tướng để đi cho đúng đường.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, trước khi nhập diệt Đức Phật ân cần chi dạy lần cuối cùng, lưu ý cho Bồ Tát Ca Diếp và thánh chúng rằng :
“Trong hàng chư Tăng, Thinh Văn có giải danh Tăng và chơn thiệt Tăng, có trì giới Tăng và phá giới Tăng, có hàng Tỳ Kheo Bồ Tát đáng tôn trọng của Phật mà cũng có ma hóa thành hình Phật để chực chờ phá chánh pháp của Như Lai.”
“ Này Ca Diếp! sau khi ta vào Niết Bàn, bảy trăm năm sau thì ma Ba Tuần dần dần, sẽ hủy hoại, nhiễu loạn chánh pháp của ta. Ví như người thợ săn thân mặc pháp phục, ma vương Ba Tuần cũng lại như vậy, hóa làm hình dáng Tỳ Kheo, hình dáng Tỳ Kheo Ni, hình dáng Ưu Bà Tắc, hình dáng Ưu Bà Di, vua ma cũng lại hóa làm thân Tu Đà Hoàn… cho đến hóa làm thân Alahan và sắc thân của Đức Phật. Ma vương dùng hình tướng hữu lậu này hóa làm thân vô lậu mà hủy hoại chánh pháp của ta”.
Đức Phật đã cảnh báo trước, thời kỳ này là thời mạt pháp, thời kỳ ma mạnh pháp yếu, ma vương có thể hóa làm bất cứ ai, từ người tại gia, xuất gia, Alahan … cho đến sắc thân của Đức Phật. Vì vậy nên tu tập vào thời kỳ này chúng ta phải hết sức cẩn thận, phải có tri kiến và tư duy để nhận biết đúng sai, đừng để hóa thân của ma, dân ma dẫn dắt thì rất nguy hiểm. Nếu tu tập mà chúng ta còn chạy theo hình tượng, sắc tướng bên ngoài thì còn cơ hội để ma lừa mình. Nếu ta tu về Tánh thì ma không thể lừa mình được, vì Tánh thì không có sắc tướng nên ma không thể biến hóa ra được. Xem tiếp--> |