.png)
người đã có công gìn giữ và bảo vệ chánh pháp của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật được trường tồn đến ngày hôm nay! Và cuối cùng em xin thành kính tri ân đến thầy Đỗ Thanh Hải, là người sáng lập ra công ty Khoa Học Năng Lượng Tâm Thức Totha. Thầy đã dày công nghiên cứu, kết hợp giữa khoa học, tâm linh và tôn giáo để tìm ra phương pháp tu tập giải thoát khỏi biển sanh tử luân hồi, thầy đã tổng hợp tất cả kiến thức mình nghiên cứu được cộng với việc công phu tu tập của mình và giáo pháp của các tôn giáo trên thế giới. Cuối cùng thầy đã nhận ra được con đường duy nhất để giúp chúng sanh thoát khỏi biển sanh tử luôn hồi đó chính là giáo pháp Phật Học Nguyên Thủy do Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã tìm ra cách đây hơn 2500 năm để giảng dạy lại cho chúng em một cách tận tình. Sau một thời gian ngắn chưa đầy một năm học tai Totha, em đã được học rất nhiều điều từ thầy và hiểu đươc giáo pháp phật học nguyên thủy và hiểu được những nguyên lý của vũ trụ để tự chọn cho mình một hướng đi phù hợp trên con đường tu học cầu giải thoát được tiến hóa tốt. Một lần nữa em xin tri ân đến thầy! Em xin cảm ơn chị Liên, anh Kiên là người đã tận tình hướng dẫn chúng em trong việc thực hành công phu một cách nhiệt tình, chu đáo và xin cảm ơn đến toàn thể thành viên trong gia đình Totha chúng ta đã đoàn kết giúp đỡ, hổ trợ lẫn nhau trên con đường tu học và để có được buổi hội thảo ngày hôm nay.
Đến với buổi hội thảo cùng nhau tu học hôm nay, em xin trình bày đề tài Chánh tri kiến và tư duy về Tam Bảo. Trước tiên em xin nói lý do tại sao mình lại chọn đề tài chánh tri kiến và tư duy về Tam Bảo này. Bởi vì mỗi một người khi đến với đạo Phật thì điều đầu tiên cần làm là đến chùa qui y Tam Bảo để nhập vào hàng đệ tử Phật. Mà nói về Tam Bảo thì có rất nhiều quan điểm khác nhau, có một số quan điểm nếu đối chiếu lại giáo pháp Phật học nguyên thủy sẽ mang tính mâu thuẫn so với lời dạy của Phật. Như một số quan điểm hướng người ta theo hình thức bên ngoài, tôn tạo, giáo điều trong tu tập, phải thế này phải thế kia ...Mà người mới bước vào đạo thì còn rất bỡ ngỡ, người ta chưa có cơ hội để được học chánh pháp, chưa hiểu được những lời dạy của Đức Phật, chưa hiểu được những nguyên lý của tự nhiên, nguyên lý của vũ trụ, người ta chưa có kiến thức về Phật học để nhận biết đúng sai, điều gì cần nên làm và điều gì không nên làm, người ta chỉ nghe theo và làm theo, tức là thầy dạy như thế nào thì làm theo như thế đó. Như vậy là người ta đã bị trói buộc từ giây phút ban đầu khi mới đến với đạo, vậy thì làm sao có thể chọn cho mình một hướng đi phù hợp để việc tu tập giải thoát được tiến hóa . Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài chánh tri kiến và tư duy về Tam Bao này để phân tích, so sánh ý nghĩa Tam Bảo theo quan điểm Phật học nguyên thủy và ý nghĩa Tam Bảo theo xu hướng hiện nay đồng thời nêu lên những lời dạy của Đức Phật và chư tổ để mọi người hiểu rõ hơn về phật học nguyên thủy mang tính đại chúng, bình dị, không giáo điều và tôn vinh Chân-Thiện-Mỹ để giúp chúng ta có cái nhìn khách quan hơn và tự chọn cho mình một hướng đi phù hợp hơn trên con đường tu học cầu giải thoát được tiến hóa tốt.
Chúng ta thấy Tam Bảo trong các tôn giáo đều mang yếu tố 3, để hiểu rõ hơn tại sao Tam Bảo trong các tôn giáo lại là 3 mà không phải là 2 hay là 4 hay là 5. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa con số 3 trong tự nhiên và trong tâm linh. Trong vũ trụ (gốc của vạn vật) bao trùm tất cả là Niết Bàn mang 3 đặc tính cơ bản là Tĩnh – Tịnh – Không. Từ Niết Bàn sinh ra cái vô cùng lớn là Tam Giới. Trong Tam Giới lại chia làm 3 cõi : Dục giới, sắc giới và vô sắc giới.Trong dục giới bao gồm 4 cõi người và 6 tầng trời, trong 4 cõi người chia làm 3 cấp : thượng, trung, hạ và 6 tầng trời cũng chia làm 3 phẩm : thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm. Cõi sắc giới gồm 18 tầng trời chia làm 3 phẩm : tam phẩm sơ thiền, tam phẩm nhị thiền, tam phẩm tam thiền. Trong 3 phẩm này, mỗi phẩm lại chia làm 3 phẩm nhỏ nữa và cửu phẩm tứ thiền gồm 9 tầng trời cũng chia làm 3 cấp Thượng – Trung – Hạ. Cõi vô sắc giới cũng chia làm 3 cấp thiền sơ thiền, nhị thiền và tam thiền.
Tính chất của tam giới cũng mang 3 yếu tố đó là Nhân – Duyên – Quả hay là Sinh – Chuyển – Diệt sự vật hay sự sống cũng sinh ra (nhân) tác động với mọi sự vật hiện tượng xung quanh (duyên) chuyển hóa rồi bị hoại diệt (quả). Thuyết của lão giáo cũng mang 3 yếu tố : vô cực – âm – dương. Từ vô cực sinh ra lưỡng nghi sinh ra âm dương hình thành hai mặt đối lập : sáng – tối, nóng – lạnh, trắng – đen, sạch – dơ… Hai mặt đối lập này cứ chuyển hóa, đấu tranh lẫn nhau cái này tăng thì cái kia giảm và ngược lại. Ngày xưa cách đây khoảng 10 năm, ti vi màu chỉ có 3 màu là R-G-V. Từ 3 màu này có thể chuyển ra rất nhiều màu. Trong những phản ứng nhiệt cần chuyển từ cực nóng qua cực lạnh một cách đột ngột người ta nghiên cứu thêm một trạng thái trung gian là vô nhiệt để chuyển đổi đó là Cực nóng – Vô nhiệt – Cực lạnh. Tại vùng bắc Ai Len các nhà khảo cổ tìm thấy cái xoắn 3 xoay cùng chiều với trái đất, có niên đại thế kỷ 30 trước công nguyên cách chúng ta khoảng 5.500 năm, đại diện cho Đất – Biển – Bầu trời. Xoắn 3 có chiều xoay xoắn ốc giống chiều xoay của động đất, sóng thần, tâm bảo để cầu nguyện cho động đất, sóng thần, bảo đừng có xẩy ra, một số bộ tộc khác thì sợ núi lữa, khí quyển mất ổn định nên dùng xoắn 3 này đại diện cho Đất – Lữa – Khí. Sau này tại Ai Cập người ta đeo xoẳn 3 này để làm bùa hộ mệnh đại diện cho Thể chất – tâm linh – tinh thần hay là ý chí – tình yêu – tinh thần. khi người ta sợ động đất thì thờ thần đất, khi người ta sợ sóng thần thì thờ thần biển, khi sợ núi lửa thì thờ thần lửa… Chính vì do con người sợ hải nên cầu nguyện nên sinh ra tôn giáo. Theo thuyết khổng giáo thì con người chúng ta chịu sự tác động của Thiên – Địa - Nhân. Chúng ta sống trong hệ qui chiếu 3D có 3 yếu tố cơ bản là Thượng – Trung – Hạ. Từ 3 yếu tố này phân tích ra thì rất là rộng như Cao - Trung Bình -Thấp; Rộng - Trung Bình -Hẹp; Dài -Trung Bình-Ngắn. Về tam thời thì có Quá khứ – Hiện tại – Vị lai, tam phân có ngày - tháng - năm. Trong tu tập ta chỉnh sửa ở 3 tọa độ Thân – Khẩu – Ý hay Trí – Tâm – Thể ; hay là trình tự tu tập là Giới – Định – Tuệ. Trong tâm linh cũng chia làm 3 phần : Thượng linh – Trung linh – Hạ linh. Nói về tam đức thì có Chân – Thiện – Mỹ; nói về tam độc thì có Tham – Sân – Si ; Nói về tam lạc thì có Phước – Lộc – Thọ. Xét về con người có 3 phần : Đầu – Mình – Tứ chi ; Con người có 3 trạng thái : Đứng – Nằm – Ngồi; Xét về hộp sọ con người có 3 rãnh , Não cũng chia làm 3 phần : Não chính – Hệ thần kinh trung ương và Tuỷ sống. Trong dân gian có câu : “Dù ai nói ngã nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng 3 chân”; Kiềng 3 chân thì nó rất là vững. Trong toán học thì qua 3 điểm ta xác định được 1 mặt phẳng. Trong thiết kế quân đội ta thấy một hạ sĩ chỉ huy một nhóm 3 người (một người sai thì còn 2 người nhắc nhở). Một trung sĩ chỉ huy một tiểu đội gồm 3 nhóm : một đại úy chỉ huy 3 trung đội. Thời vua Quang Trung, Nguyễn Huệ di chuyển quân một cách thần tốc để kịp đánh thắng giặc cũng dùng yếu tố 3 này, tức là 2 người kiêng 1 người ngủ, cứ thế thay nhau mà ngủ, đi suốt ngày đêm không nghĩ. Có một nhà cứu hộ người Mỹ, ông kinh nghiệm qua những trận động đất hay địa chấn và ông đã tìm ra được tam giác an toàn, khi xẩy ra động đất hay địa chấn nếu ta núp bên cạnh ghế, cạnh tủ, cạnh bàn thì sẽ an toàn hơn vì khi có đồ vât rơi đụng cạnh bàn cạnh ghế hay cạnh tủ sẽ văng ra xa không đụng vào chúng ta, còn nếu ta núp dưới bàn, trong tủ … thì sẽ bị đồ vật đè lên mình. Bức tranh nụ cười bí hiểm do Leonardo da Vinci vẽ rất độc đáo, đến bây giờ người ta dùng những kỹ thuật tiên tiến để chụp lại nhưng cũng không thể nào có hồn như bức vẽ. Leonardo da Vinci đã áp dụng tỉ lệ vàng trong tam giác để vẽ nên bức tranh này, tỉ lệ đó là( a + b)/a = a/b ngày nay người ta áp dụng tỉ lệ này trong kiến trúc hay trong đánh giá người mẫu, hoa hậu…Trong cơ thể người nước chiếm đến 70% là nước nhưng cấu tạo của nước 1 phân tử nước cũng gồm 3 nguyên tử là 2 hidrô và 1 oxi là H2O. Nguyên tử cấu tạo cũng gồm 3 thành phần (Prôton – Neutron – Electron). Cấu tạo của Proton gồm 3 hạt quat 1 dow và 2 up ,cấu tạo của Neutron cũng gồm 3 hạt quat 2 dow và 1 up. Nói về yếu tố 3 trong tự nhiên và trong tâm linh thì rất là rộng nên em chỉ tóm tắt sơ lược
Từ cái lớn nhất là tam giới cho đến cái nhỏ nhất là phân tử, nguyên tử cũng đều mang yếu tố 3, trong các tôn giáo người ta hiểu rất rõ yếu tố 3 trong tự nhiên và trong tâm linh. Chính vì vậy cho nên tam bảo trong các tôn giáo đều chọn yếu tố 3, ví dụ như:
- Tam bảo trong thần giáo Hy Lạp cổ đại là : Thống Trị – Tình Yêu – Sức Mạnh.
- Tam bảo trong Ki tô giáo là : Thiên Chúa – Đức Tin – Tình Yêu.
- Tam bảo trong Thiên Chúa là : Chúa Cha – Chúa Con – Chúa Thánh Thần.
- Tam bảo trong Hồi Giáo là : Allah (đấng toàn năng) Trăng – Sao.
- Tam bảo trong Ấn Giáo là : Vishnu (đấng bảo hộ)- Brahma (đấng sáng tạo)- Shiva (hủy diệt).
- Tam bảo trong Kỳ Na giáo là : Tin – Trí – Đức. Tin là tin tưởng vào giáo pháp. Trí là có trí để nhận biết đúng, sai. Đức là sống có đạo đức với xã hội.
- Tam bảo trong Lão Giáo : Thái Thanh- Ngọc Thanh- Thượng Thanh.
- Tam bảo trong Khổng Giáo : Thiên – Địa – Nhân
- Tam bảo trong Thần Giáo là : Nhật – Nguyệt – Tinh
- Tam bảo trong Cao Đài giáo là : Phật – Chúa – Thánh.
- Tam bảo trong Bon Giáo là : Bản Tôn- Thượng Sư (người Truyền giáo)- Hộ Pháp (bảo vệ).
- Tam bảo trong võ giáo, dưỡng giáo, khí công, yoga là : Tinh – Khí – Thần .
* Tam Bảo Có 3 Đặc Tính Cơ Bản :
+ Tam tính bổn hằng tâm : là 3 điều bảo lưu, 3 điều hằng tâm, 3 hoài bảo ban đầu.
+ Tam vị tôn : là 3 ngôi tôn kính để nương tựa, cầu xin (Chúa, Thánh Thần) người tu tập luôn nương tựa vào tha lực bên ngoài, cầu xin cầu nguyện.
+ Tam vị báu : là 3 ngôi báu ngự tôn thống trị, người tu tập luôn cầu xin cho mình là người hạ trí nên cần nương nhờ lạy mộp đấng toàn năng.
* Theo quan điểm Phật học nguyên thủy mà Đức Phật dạy thì Tam Bảo là :
+ Phật : là sự thành tựu giác ngộ.
+ Pháp : là nhận ra được chư pháp không tướng. phải có tri kiến và tư duy hiểu đúng giáo pháp. Thấy được mọi sự vật hiện tượng đều vô thường, vô ngã, cái gì có hình tướng thì cũng sẽ bị hoại diệt, không có cái gì có thể tồn tại mãi được, không có cái gì có cái ta chắc thật của nó. Bất cứ vật gì hay sự sống cũng đều theo qui luật sanh - trụ - dị - diệt hay là sanh – lão – bệnh – tử, cái gì sanh ra rồi lớn lên rồi cũng sẽ bị hoại diệt, đó là qui luật tất yếu của tự nhiên.
“Pháp do nhân duyên sanh mà cũng tùy nhân duyên mà diệt”
Thấy được mọi sự vật, sự sống hay con người đều không có thật, tất cả đều do nhân duyên hợp lại mà thành và thấy được chư pháp không tướng thì ta đâu có hướng ra hình thức bên ngoài, ta đâu có dại gì đi tìm cái giả mà ta sẽ hướng đến cái thật. Cái thật ở đây là gì? Theo như Phật dạy thì cái thật ở đây là cái Tánh Phật bên trong mỗi chúng ta, chúng ta hãy quay vào bên trong mình để mà tìm tánh Phật của mình.
“Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”
+ Tăng : là nhận ra được chúng sanh đồng thể tánh.
Như trong kinh Bách Du nói: “Mọi người chúng ta đều cùng chung một bản thể. Bản thể ấy không phân biệt nhân và ngã. Tất cả vạn pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, không có vật gì có thể tự nó tồn tại độc lập được. Ta và vạn pháp đã nương nhau mà tồn tại thì việc đem lòng từ bi và những ân huệ để bố thí cho chúng sanh, mới xem ra có vẽ như là vì người, mà thật ra thì chính ta cũng có được lợi ích lớn lao”
Nhận ra được chúng sanh cùng thể tánh, thấy được mọi người cùng chung một bản thể mà sinh ra thì ta mới mở lòng từ bi yêu thương tất cả mọi người, mọi loài chúng sanh, thấy được mình có trong mọi người và mọi người có trong mình. Thấy được như vậy thì ta đâu có lo tranh đấu hơn thua nhau để làm gì mà trái lại ta sẽ yêu thương đoàn kết (kết nối đoàn thể) giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau (người tại gia cung cấp vật chất cho người xuất gia, người xuất gia thì giảng pháp cho người tại gia, hướng dẫn cho người tại gia tu tập). Cùng nhắc nhở và động viên lẫn nhau để vượt qua được mọi chướng ngại, mọi thử thách trên con đường tu học cầu giải thoát. Mỗi một cá nhân rất khó có thể để nhận ra hết được những sai sót của mình nên cần phải kết nối đoàn thể để nhắc nhở nhau. Kết nối đoàn thể sẽ tạo ra một sức mạnh rất lớn như ta thường nghe câu “đoàn kết đoàn kết, đại đoàn kết, thành công thành công đại thành công” khi ta càng đoàn kết bao nhiêu thì thành công càng lớn bấy nhiêu hay trong dân gian có câu “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” không có sức mạnh nào có thể hơn được sức mạnh của đoàn thể, không có trí tuệ nào có thể hơn được trí tuệ của đoàn thể. Trong kinh doanh ta thấy những tập đoàn lớn thường thành công cao, đó cũng chính nhờ vào sự đoàn kết. Như trường hợp ngài Mục Kiền Liên là người có thần thông đệ nhất, nhưng ngài cũng không thể cứu được mẹ của ngài ở cảnh địa ngục, khi ngài dâng cơm cho mẹ thì liền hóa thành than, sau đó ngài về thưa hỏi Đức Phật thì Đức phật dạy phải nhờ đến đoàn thể sau 3 tháng an cư chuyên tâm tu tập chú nguyện thì sẽ cứu được mẹ Ngài, cũng từ đó có truyền thống vu lan báo hiếu như hiện nay. Trong tâm linh người ta rất sợ binh đại càng, ví dụ như trong chiến tranh người ta chết trong một trận đánh rất là nhiều và người ta chưa siêu thoát được và kết nối với nhau tạo thành binh đại càng, để giải quyết những trường hợp này thì rất khó. Thời kỳ này là thời kỳ mạt pháp (thời kỳ ma mạnh,pháp yếu) nên chúng ta cần phải kết nối chánh đoàn thể để tạo nên sức mạnh để chống lại những năng lượng đen quấy phá chúng ta, nếu ta tu một mình thì rất dễ bị năng lượng đen điều kiển.
Như vậy để thành tựu giác ngộ Phật thì phải hiểu đúng chánh pháp , nhận ra được chư pháp không tướng và phải thành tựu được kết nối chánh đoàn thể.
* Theo quan điểm Tam Bảo hiện nay là tôn thờ 3 ngôi báu :
+ Phật : Thờ Phật, Lễ Phật, Tán dương Phật.
+ Pháp : Tôn thờ giáo pháp.
+ Tăng : Kính trọng (có những hình thức biến tướng như là tôn thờ) Tăng, Ni.
Chúng ta xét lại quan điểm Tam Bảo hiện nay có đúng với quan điểm của Phật học nguyên thủy hay không. Hình ảnh Đức Phật Thích Ca hiện đang thờ trong các chùa không phải là hình ảnh Đức Thích Ca. Hình Đức Phật Thích Ca lúc còn tại thế hiện đang để ở bảo tàng London Anh do ngài Phú Lâu Na vẽ lúc Đức Phật 40 tuổi, được các nhà khảo cổ học người Anh tìm thấy tại Ấn Độ. Lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài chỉ cho quán chiếu vào tâm mình để mà chỉnh sửa, những người mới nhập môn như Sa di chưa quán chiếu vào tâm mình được thì cho quán chiếu bánh xe pháp luân để thấy bát chánh đạo, thấy sự xoay chuyển nhân duyên. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, một số người không quán chiếu bánh xe pháp luân được nên quán chiếu tháp Xá Lợi, chư tổ cũng đồng ý, sau đó giáo hóa cho vua chúa, vua chúa không quán chiếu Xá Lợi được vì trong cung có rất nhiều vàng bạc ngọc ngà hột soàn, vua chúa đã quen với hình ảnh bên ngoài, không thể quán chiếu chính mình được nên cho quán chiếu hình ảnh chân thiện mỹ, đại diện cho sự giác ngộ là hình phật cao khoản 10cm để thấy 6 căn của mình cũng hài hòa như bức tượng, sau đó cho tháp Xá Lợi lên đầu, bây giờ vẫn còn những bức tượng có đầu nhọn nhọn, những bức tượng cao khoản 10cm đó bây giờ vẫn còn để ở bảo tàng Lon Don. Thêm một chứng minh nữa là cảnh Sắc Thiền Thiên đã không còn hình tướng, chỉ có hào quang sáng ngời rồi Vô Sắc Thiền Thiên cũng không còn hình tướng mà Phật thì cao hơn rất nhiều thì làm sao còn hình tướng được. Sau này còn ảnh hưởng của Ấn Độ giáo cho rằng đức Phật Thích Ca là hóa thân của thần Vishnu nên làm tượng lớn hơn nữa, dần dần qua sự biến đổi của lịch sử có tượng lớn như ngày nay. Đức Phật đã nhắc nhỡ chúng ta chớ nên nghe theo những gì có trong truyền thống, trong lịch sử, trong kinh điển hay là thầy ta mà ta phải có tri kiến và tư duy để nhận biết điều gì bất thiện và đáng bị khiển trách thì ta không nên nghe theo và điều gì thiện và mang lại lợi ích thiết thực thì ta hãy nên thực hành theo. Như trong kinh Đức Phật nhắc nhỡ
“ Này các Kalama, chớ bị dẫn dắt bởi những lời đồn hay bởi truyền thống, chớ bị dẫn dắt bởi những lời người khác nói, chớ bị dẫn dắt bởi những gì ghi lại trong kinh điển, bởi lí luận hay suy diễn, bởi xét đoán bề ngoài, bởi tán thành một lý thiết nào đó, bởi lòng tôn trọng vị Sa Môn này là thầy ta. Mà này các Kalama, khi các vị tự mình biết rõ: những pháp này là bất thiện, những pháp này đáng bị khiển trách và bất lợi lúc ấy các vị hãy từ bỏ chúng…và này các Kalama, khi nào các vị tự mình biết rõ: những pháp này là thiện, những pháp này là không lỗi và có lợi, lúc ấy các vị hãy tiếp nhận và an trú trong pháp đó”.
Trong kinh Đức Phật dạy
“Người nào ca ngợi Như Lai, tán thán Như Lai mà không chuyên tâm tinh tấn, hiểu đúng, hành đúng theo giáo pháp Như Lai đã chỉ. Đó là phỉ báng nặng nề Như Lai”.
Rõ ràng không chuyên tâm tinh tấn hiểu đúng, hành đúng giáo pháp thì sẽ tuyên truyền giáo pháp sai, sẽ đưa con người ta vào mê ngộ thì tội lỗi vô cùng và những người ngoại đạo nhìn vào sẽ cho rằng Đức Phật chủ xướng nói tánh không mà sao vẫn còn thấy hình tướng và cho rằng giáo pháp của Đức Phật mâu thuẩn, sẽ tìm cơ hội để chỉ trích, bài bác sẽ làm cho giáo Pháp của Đức Phật bị hoại diệt thì đúng là phỉ báng nặng nề Như Lai. Xem tiếp--> |