CHUYÊN MỤC
ĐỒNG TÂM
LỊCH ÂM DƯƠNG
LIÊN KẾT WEBSITE
Thông tin khoa học cơ bản » THƯ VIỆN TOTHA  » Chi tiết
 
Kỷ yếu cùng nhau tu học 2013 tt4
Tất cả sự vật hiện tượng lớn nhỏ xung quanh ta và ngay cả bản thân của ta đều không thể thắng nổi quy luật vô thường, nghĩa là không tồn tại mãi được, và không thoát ra ngoài được luật vô ngã...

     Trong cái cốt lõi của cái Tâm có 3 độc tố: Tham Sân Si, chính vì 3 cái độc tố này mà quyết định con người sẽ được ở cảnh giới nào, tùy vào tâm mình định đoạt. Ví như con người không có tham, sân, si thì sẽ dần dần mở rộng được tình yêu thương bao la với con người vạn vật xung quanh, đời sống cho người vì thế mà tiến hóa đi lên. Còn như ích kỷ, ác độc, tham lam, thì dần dần con người sẽ sống với cái tâm hẹp hòi, dần suy hóa. Cho nên đến cảnh giới nào trong tam giới đều là do cái tâm của mình nó chuyển. Không cần có địa ngục, chẳng đi đâu xa để tìm thiên đàng, nếu sống mà cứ trong sự nôm nốp lo sợ, do tham lam bỏn xẻn nên sợ người lấy của mình, lúc nào cũng bo bo giữ của, hay luôn rình rập để lấy thêm của người vì lòng tham…thì dù đang sống và làm người nhưng chẳng khác nào giống cái cổ xe hành trình với cái bụng to và cổ nhỏ (cảnh giới ở chốn địa ngục, ngạ quỹ) vì không tìm được chút an lành hạnh phúc. Còn như sống chan hòa với mọi người, luôn dành tình yêu thương cho con người nên luôn đón nhận được tình cảm của mọi người, con người lúc đó sẽ thấy tự tại, sẽ có hạnh phúc thực sự, thì cảnh giới đó chính là thiên đàng dù đang ở chốn trần gian. Tam giới có sẳn đó không xa, tùy tâm mmình quyết định vì sẽ được cảm chiêu vào cảnh giới đúng với cái tâm mình muốn.

       Pháp chính là sự vật hiện tượng xung quanh, và Pháp do nhân duyên chuyển hóa nên tạo tác nhiều hình thức, nhiều dạng khác nhau. Những cái “thức” đó tác động đến lục căn và xâm nhập vào trong mỗi con người. Con người phân biệt, chấp trước vào những cái thức khác nhau đó do si mê và vô minh nên cho rằng các pháp đó là có thật và lâu bền mà không nhận ra rằng:


                                                             “Nhược pháp nhân duyên sinh

                                                             Pháp diệc nhân duyên diệt”

     Chính vì thế nên mới có muôn thức và muôn thức đó tác động hằng ngày vào lục thức chúng ta, làm cho con người ta luôn chấp trước ngã pháp.

      Tánh khởi vạn tướng. Tất cả các tướng đều từ tánh mà sinh ra. Cái tánh rộng lớn bao trùm tất cả, gọi là tánh không. Khi con người chưa nhận ra thật tánh của mình thì sẽ khởi sinh ra nhiều tướng khác nhau. Chính vì vậy mới sống quay cuồng trong chốn luân hồi của tam giới. Ví như mọi con người sinh đều thiện như nhau (nhân chi sơ, tính bổn thiện),  khi lớn lên do tánh hiền hay dữ, do làm công việc thiện (như bác sĩ cứu người) hay làm việc bất thiện (như trộm cướp) thì sẽ sinh là nhiều dạng người khác nhau, gọi là tướng. Còn nói về sâu xa hơn, chúng ta đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp khác nhau, mỗi một kiếp chúng ta đều đóng vai là những con người khác nhau (khác về hình dáng, nghề nghiệp, tính tình…) là do môi trường điều kiện hoàn cảnh nhân duyên khác nhau, nếu như không khác thì chắc gì ta đã khác nhau, tất cả những đời kiếp đó nếu nhìn với cái nhìn rộng hơn thì chẳng khác nào những tướng của ta giống như ta đã đóng hết vai này đến vai khác trong nhiều cuốn phim khác nhau, nhưng khi trở về chính mình không đóng vai nào cả thì đó mới là tánh của mình (bao trùm tất cả, dung nạp tất cả hay còn gọi là thật tánh của mình. Thật tánh thì không có tướng.

     Tâm, Tánh đều có mối liên hệ với Pháp mà ra. Con người chưa sống đúng với chân tâm của mình cũng do còn ái, mê mờ vào những cái pháp xung quanh, cho rằng nó có thật nên tâm vọng đọng, mới sinh yêu ghép hận thù và chìm vào vòng sinh tử luân hồi trong tam giới. Vì khi thọ nhận sự vật hiện tượng vào người ta cho rằng pháp ấy tôn tại mãi nên mới chấp vào tạo nhiều hình tướng khác nhau, rồi ghi nhận những hình tướng, tạo tác đó (thức) vào để giữ rồi tạo ra nhiều tánh ngày càng xa cái tánh thật của mình nên chỉ thấy cái tướng và đắm chìm trong muôn tướng nên không rời khỏi được cái khổ của thế gian.

       Nếu như hiểu được rằng tất cả các pháp đều do nhân duyên chuyển hóa mà có, thì ta sẽ nhận ra thật tướng nên dần dần không còn vô ngã nữa, mà tìm được về với cái tâm chung, cái tâm yêu thương, dung nạp. Gọi là chân tâm.

      Nếu như hiểu rằng các pháp cũng do nhân duyên tạo tác ra các thức khác nhau thì sẽ không còn chấp trước ngã pháp. Thì dù có thọ nhận những pháp của thế gian đều không bị tác động bởi cả bên trong lẫn bên ngoài. Dần dần trở về đúng với tánh của mình. Gọi là thật tánh. Thế nên, các vị A la hán chứng được thuyết 12 duyên khởi mà không còn bị luân hồi, vì tất cả đều do nhân duyên, họ không còn bị tác động bởi các pháp, không còn bị nhân duyên chuyển hóa. 

      Tất cả những điều trên cho ta thấy, Tâm còn vọng đọng, Tánh còn sanh tướng, đều xuất phát từ cái nhìn nhận Pháp (sự vật hiện tượng) mà sẽ làm cho cái Tâm ta lúc thế này lúc thế khác (tâm vô ngã) và ta không tìm ra được cái tánh thực của mình. Bởi thế, nếu thấy rõ được rằng chư pháp là không tướng, bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm bất cấu bất tịnh…tất cả đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, thì người ta mới có thể thây được ngũ uẩn giai không: không bị vướng chấp vào sự vật hiện tượng bên ngoài (ngoại pháp) lẫn sự vật hiện tượng bên trong ta (nội pháp) thì mới thoát khỏi sự ràng buộc, lôi kéo… tìm được sự tự tại, giải thoát. Trong giáo lý Đức Phật dạy không ngoài Khổ (Dukkha) và Diệt khổ. Thấy được những điều trên để dần không bị ràng buộc (khổ) nữa thì có nghĩa là diệt được khổ.

       Để đạt được sự thấy biết thật tướng của vạn Pháp, không cách nào khác là phải mở được trí huệ (Tuệ) thì mới thấu quán được tường tận. Và để có được trí huệ thì phải qua con đường thiền định (Định). Định chính là tập trung được tinh thần, thân tâm không còn bị chi phối, nhưng nếu Định sai thì hậu quả khôn lường, do vậy bửu bối để giúp ta định đúng đó là giữ cho ta được sạch (sạch cả Thân-Khẩu-Ý). Mà muốn thanh sạch thì không cách nào khác là giữ giới và làm việc thiện (Giới). Nói cách khác, con đường đi thuận theo đúng quy luật đó là: Giới – Định – Tuệ (giữ gìn giới luật -> định được tâm -> tuệ giác khai mở). Nhưng ngày xưa, sự vật hiện tượng đều hiền hòa đơn giản (Dịu Pháp) nên Đức Phật đã hướng dẫn pháp tu Giới-Định-Tuệ, còn với sự biến động của môi trường sống hiện nay, sự vật hiện tượng bị biến động rất nhiều kể cả nhân tâm con người (Mạt Pháp) thì phải qua bước Niệm, nghĩa là Giới-Niệm-Định-Tuệ.

·                   Giới: mục đích của việc giữ giới là để giúp ta ngừng không làm những việc xấu vì sẽ gây tác động ngược pha làm mất cân bằng (năng lượng đen, năng lượng rối) bản thể của ta. Sau đó tiến lên làm việc thiện để giúp ta sạch dần trong tàng thức của mình (những thức còn lại từ nhiều đời khiếp trước). Mà phương pháp đã được chỉ ra là Ngũ giới và Thập thiện nghiệp.

·                    Niệm: giúp cho bản thể ta được hài hòa, cân bằng trước tác động của vạn pháp xung quanh, để nhắc nhở chính mình luôn tự chủ, và lại những việc tốt ta đã làm để ghi nhớ và ngày càng tinh tấn hơn, qua 4 khu vực (Tứ Niệm Xứ):

o   Thân: thân là vô thường.

o   Thụ: cảm thụ là không thật.

o   Tâm : tâm là vô ngã.

o   Pháp: pháp là vô tướng

    Việc luôn nhắc nhở và lặp lại còn giúp ta dần dần hiểu ra thực trạng của sự vật hiện tượng xung quanh, từ đó không còn chấp trước ngã pháp thì mới đi đúng trên con đường tìm giải thoát. Như trong đoạn đối thoại của đệ tử của Phật – Ngài Ca Chiên Diên và vị tu sĩ Bà La Môn về lý do mà các vị Tỳ kheo dù đã tu tập mà vẫn còn tranh đấu với nhau là bởi chấp ngã, chấp pháp. Bởi thế mà Đức Phật đã dạy trong kinh Kim Cang rằng :

« Nhược dĩ sắc kiến ngã

Dĩ âm thanh cầu ngã

                                                                 Thị nhân hành tà đạo

                                                                                       Bất năng kiến Như Lai »

        (Nếu ai cầu Phật bằng hình tướng, tìm Phật bằng tiếng tăm, người ấy hành sai đường, và sẽ không thấy được Như Lai).

·                   Định: làm cho tinh thần được tập trung, cố định tinh thần, làm tinh thần được yên lặng.

·              Tuệ: tuệ giác khai mở để biết được quy luật của vạn vật. Chính vì hiểu rõ được thì mới nhận ra chư pháp không có cái riêng, đều cùng chung 1 bản thể. Nhờ vậy mà sẽ thấu quán được: chúng sanh đồng thể tánh, thấy được điều đó người tu học sẽ thực hành được hạnh bố thí vô tướng và độ sanh vô ngã (không còn chấp vào việc làm việc thiện là cho người…), nhờ vậy mới an trú được trong tâm Bồ Tát, và an trú trong tâm bồ tát để thực hành ngày càng uyên thâm hơn nữa việc mở rộng tâm và trí thấu quán vạn vật, cuối cùng sẽ thấy biết được ngũ uẩn giai không, đó là con đường duy nhất thoát khổ (Dukkha).

·         Thứ 2: Sự nguy hại do cái Tâm trược khởi lên.

         Điều mà con đã trải nghiệm và chiêm nghiệm thực tế lúc bắt đầu học lớp 2, đó là lời nhắc nhở của Thầy mà lúc đó vì chưa hiểu nên con xem nhẹ nó. Mãi khi gặp sự cố rồi mới thấy đúng là cái tâm trược khởi nó nguy hiểm vô cùng.

Nhất niệm tâm trược khởi
Bá vạn chướng môn khai

         Con đã từng vì sự chấp vào cái ngã của mình (chấp với người, muốn thắng thua) luôn cho mình đúng, mà trong tích tắc đã để cái ý không tích cực xuât hiện trong đầu, chỉ sau vài ngày thì điều con nghĩ thành sự thật. Một điều bất ngờ là những điều đó không chỉ ảnh hưởng đến họ mà còn kéo theo chính bản thân mình cũng bị vướng vào cái rối đó. Mãi ngụp lặn trong hơn 1 tuần với sự rối rắm trong công việc, sự mâu thuẩn với cấp trên, lúc đó nhớ lại lời Thầy, con mới chịu ngồi nghĩ lại mình, và nhận ra cái chuỗi sự việc hết cái này kéo theo cái kia là do cái tâm mình rối mà ra, không nhận được rằng tất cả các pháp đều do nhân duyên sinh, không tìm cách chuyển hóa nó mà lại đầu tranh với nó, để rồi cũng từ cái cố chấp đó mà tạo hết việc này đến việc khác. Nhờ vào bài giảng trước đó không lâu của Thầy, con ngồi bình tâm lại và dùng đúng cái “chánh ngữ” để nói lên những gì lợi ích cho tất cả mọi người, để dung hòa hết chứ không vì cái ta riêng nữa. Điều kỳ lạ là cái rối rắm cả tuần lại được giải quyết sau việc làm đó hơn 1 tiếng. Điều này làm con cứ chiêm nghiệm lại suốt hơn 2 tuần sau đó. Cũng may là việc này vừa xảy ra nên còn nhận biết được là tại mình mà ra, chứ nếu không nhớ thì lúc đó lại ngồi than thân trách phận mình khổ. Rồi những việc cách đó 1 năm, 10 năm thì làm sao nhớ, nói chi đến những việc của đời trước kiếp trước…

         Từ cái thực tế đó nên con đã biết rằng mọi việc lớn nhỏ đều do mình mà nó mới tồn tại, cái nguyên nhân sinh ra mọi thứ là do hành động hay suy nghĩ của con người qua 3 khu vực Thân-Khẩu-Ý, trong đó cái Ý là quan trọng nhất vì nó rất nhanh và khó kiểm soát được. Xét cho cùng cái Ý là sản phẩm của não tạo ra, thật ra nguồn gốc sâu xa hơn chính là từ cái Tâm, Tâm Thức của mỗi con người được tích lũy không phải của những tạo tác đời này kiếp này mà còn tàng dư của nhiều không thời gian khác (đời trước kiếp trước). Nếu như những việc mới xuất hiện thì ta còn biết được, còn như những việc đó từ rất lâu đời như 1 tháng, vài tháng hay vài năm mới hội đủ điệu kiện mà xuất hiện (do cái hành động hay ý muốn của mình trước đó mà người ta quên) thì người ta lại than thân trách phận rằng mình khổ. Đó là chỉ mới nói ở thời gian hiện tại, còn chưa kể nhiều đời kiếp trước tích lũy lại thì nó nhiều biết chừng nào. Và do vậy con người ta cứ mãi quay cuồng trong cái việc giải quyết những kết quả của quá khứ, rồi tiếp tục gây ra (tạo tác với sự vật hiện tượng) những hành động mới để rồi tiếp tục nhận lãnh trong tương lai. Cứ như thế mà mãi tạo ra cái vòng lẫn quẩn cho con người (luân hồi). Nếu như ta biết cách hóa giải những hành động do sai lầm (vô minh) trong quá khứ đồng thời không tiếp tục làm những hành động, sự việc (vô hành, vô thức) để phải hóa giải trong tương lai thì lúc đó ta sẽ không bị cái cũ làm cho mình rối trí, cái mới cũng không tiềm ẩn chờ để xuất hiện, thì ta sẽ hoàn toàn tự tại với vạn pháp xung quanh. Đó là ta đã đứng yên bất chấp mọi chuyển biến của vạn pháp, hay gọi là không đến, không đi (Như Lai) thì mới Thường còn được. Cách hóa giải đó không gì khác được ngoài con đường tu tập (chỉnh sửa) lại mình.

        Từ cái Tâm sẽ làm cho con người ta mãi bị trói buộc, bởi thế vị Tổ Sư Bồ Đề Đạt Đa có nói “Muốn tìm Phật hãy tìm tâm” hay “Tất cả chúng sanh đều là Phật như mình, không có thiện, không có ác, mà chỉ có động tác của Tâm”. Nhưng cái Tâm của con người đang có chưa phải là cái Tâm thật, nên mới gọi là Tâm thức.

        Tâm thức là một tổ hợp bao gồm Tàng thức + Lục thức.

        Tàng thức là những cái còn tích lũy lại từ nhiều đời kiếp, hay hệ quy chiếu trước đó

Lục thức: Lục Căn tiếp xúc mới Lục Trần mà tạo ra nhiều thức (hình thức, dạng thức) khác nhau. Bao gồm: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

         Cái tâm ta lúc thì suy nghĩ thiên về thức này, lúc lại nghiêng về thức kia, lúc vui lúc buồn, bởi vậy khi nào ta làm cho các thức cân bằng (hòa thức) thì mới hội tụ lại một điểm chung (tựu thức) lúc đó ta mới đạt được việc không bị chi phối bởi các thức (vô thức), vô thức này là do tu tập, khác với vô thức tự kỷ khi con người không làm chủ được mình.

         Cách để chúng ta không bị chi phối bởi lục thức là phải tu tập để Thân Khẩu Ý được hài hòa cân bằng.

         Cách để chúng ta tránh được sự tác động của Tàng thức là làm nhiều việc thiện để chúng ta chứng kiến lại cái thiện, đó là cách để rửa dần cái Tàng thức xấu của mình, chứ nó chính là của ta, là cái mà chúng ta đã gieo từ hành động thân khẩu ý trước đây, cho nên không thể nói làm cho mất là mất ngay được. Trong pháp tu của Phật học có Thập thiện nghiệp. Việc thiện ngoài làm cho chúng ta hóa giải tang thức còn làm cho ta mở được tâm yêu thương đối với vạn vật xung quanh. Sự cho đi đó sẽ làm cho người ta cảm thông được với sự đau khổ của mọi người, xót xa được với nổi khổ của người, xem cái đau của người la của mình. Đó sẽ là cách để giúp cho ta không còn chấp ngã nữa để nhận ra rằng chúng sanh đồng thể tánh.

        Cái tâm dung nạp được tất cả thì mới ngày càng tròn ra và rộng ra, trùm phủ hết tất cả để vượt ra ngoài tam giới và tiến tới giải thoát.

“Tâm địa không quấy, thì Tánh mình là Giới

                                              Tâm địa không Si, thì Tánh mình là Huệ                       T

                     Tâm địa không rối, thì Tánh mình là Định (PBĐK tr 121)” 

        Thứ 3: Thật may mắn khi gặp được Thầy (Đỗ Thanh Hải) và giáo pháp đúng đắn.

         Những ngày đầu đến học, dù lòng tin là có nhưng không thể gọi là nhiều hay tuyệt đối được, rồi ngày qua ngày, với những gì con nhận được từ Thầy mà nếu nói ra có thể người ngoài sẽ khó tin được, từ ánh mắt từ bi và động viên khích lệ, đến sự hỗ trợ âm thầm của Thầy nhưng con cảm nhận được và con biết mình vượt qua những chướng ngại đều ít nhiều có sự giúp đỡ đó, có lẽ chỉ người trong cuộc như con và những học viên Totha mới cảm nhận được hết sự tận tâm, sự từ bi của Thầy. Bởi thế sau mỗi lần vượt qua nó, con chỉ biết âm thầm cảm ơn Thầy và tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa để không phụ tấm lòng mà Thầy đã giành cho con và gia đình Totha.

        Thầy đã tạo ra một môi trường tu học vừa thân thiện vừa gắn bó giữa những con người xa lạ, dẫu biết ai cũng còn nhiều vô minh nhưng dưới sự từ bi và tấm lòng độ sanh của Thầy, ai cũng dần nhận ra và muốn sửa đổi để cùng tiến hóa đi lên trong thời gian tới.

         Đã có con đường đi đúng qua phương pháp của Thầy giảng giải (Chánh) cộng với một đoàn thể luôn hướng tâm để dìu dắt nhau tiến bộ, luôn hỗ trợ nhiệt tình và chia sẽ để cùng nhau tu học (Tịnh) thì ắt sẽ đi đúng con đường để đến với sự tiến hóa, giải thoát, giác ngộ (Giác).

          Chánh Giác Tịnh chính là 3 điều hằng lưu Tâm để  giúp người hành giả luôn nhắc nhở mình và có hướng tâm đúng nhằm đạt được những thành tựu trên đường tu học mà Lục Tổ Hụê Năng đã truyền dạy.

                  Chánh (=Pháp) nghĩa là giáo pháp đúng, con đường đúng, phương pháp đúng.

                  Giác (=Phật): tu tập hướng về sự giác ngộ.

               Tịnh (=Tăng): sự trong sạch  trong đoàn thể, hòa đồng và đoàn kết với nhau để cùng phát triển.

       Những điều đó Thầy đã và đang từng ngày tạo dựng cho học viên gia đình Totha: Thầy đã chắc lọc để truyền giảng giáo pháp đúng của Phật học nguyên thủy, Thầy luôn nhắc nhở để đoàn thể ngày càng tinh tấn và đoàn kết, để cùng dìu dắt nhau trên con đường tu tập giải thoát. Việc còn lại chính là sự cố gắng hơn nữa của từng cá nhân.

     Con xin lần nữa tri ân về những gì Thầy đã giành cho con nói riêng và đại gia đình Totha nói chung. Và hi vọng rằng sẽ nhiều người được may mắn gặp Thầy như thành viên gia đình Totha chúng con.   Xem tiếp-->

Các thông tin cùng loại này
» BÀN TAY ÁNH SÁNG (2017-11-18 09:53:53)
» Phạm Võng Kinh Tinh Giải T1 (2017-11-13 16:56:46)
» Ngũ giới Đạo thành người (2017-04-06 05:02:34)
» Hành trình TOTHA 2016 (2017-04-06 04:30:03)
» Hành trình TOTHA 2015 (2017-11-17 12:18:16)
» Ngũ giới theo góc nhìn khoa học Tập 1 (2018-03-18 11:59:38)
» Hành trình TOTHA 2014 (2017-11-17 16:32:27)
» Kỷ yếu cùng nhau tu học 2013 (2013-09-19 15:19:17)
» Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời (2011-10-16 17:06:12)
» Nhà tiên tri Edgar Cayce (2011-10-16 16:46:10)
» LƯỢC SỬ THỜI GIAN (2017-11-22 11:55:40)
» ĐẠO CỦA VẬT LÝ (2011-01-15 19:50:17)
» ĐỜI SỐNG SAU KHI CHẾT (2011-01-15 01:01:59)
» Hành Trình Về Phương Đông (2011-01-14 16:40:56)
» Trở Về Từ Cõi Sáng (2011-01-13 21:57:51)
» TỬ THƯ TÂY TẠNG (2011-01-13 21:06:23)
» Du hành qua các vùng tâm thức (2010-12-31 00:56:18)
» Kỷ yếu Hội thảo Khoa học thực nghiệm Năng lượng Tâm Thức 18/12/2010 (2010-12-30 17:04:04)
  1  
 

CÔNG TY KHOA HỌC NĂNG LƯỢNG TÂM THỨC TOTHA
245 Trịnh Đình Trọng, P.Hòa Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM, VN - ĐT0909777929 - 0908883380 - 0909631630 - 0914359159 - Email:   phapluantotha@gmail.com

Copright 2009 www.totha.vn,
All rights reserved

Lượt truy cập: 19512011
Đang online : 259