Các nhà khoa học cho biết, nhịp sinh học trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lao động và số lượng tai nạn do con người gây ra.
Mỗi người đều bị ảnh hưởng bởi nhịp sinh học - điều đó không có gì là lạ. Nhưng những ảnh hưởng đó là gì và chúng xảy ra như thế nào? Chúng ta thường chỉ nghĩ đến chúng như những chuyện bất thường không mong muốn, chẳng hạn bỗng dưng bị cảm lạnh, bà mẹ vợ ưa cằn nhằn đến thăm mà không báo trước, hoặc rắc rối trong công việc. Sau khi điều tra kỹ lưỡng về nhịp sinh học trong cuộc sống con người, các nhà khoa học nhận thấy rằng nó trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lao động và số lượng các tai nạn con người tạo ra. Như vậy, trong tương lai, khi lên lịch làm việc, người sử dụng lao động có thể phải tính đến chuyện nhịp sinh học của từng nhân viên cụ thể ở từng thời điểm. Tất nhiên, đây không phải là tử vi, nhưng là một cái gì đó khá gần với nó.
Nhịp sinh học - chu kỳ và thời điểm
Các bác sĩ chia nhịp sinh học thành hai nhóm lớn: bẩmsinh và mắc phải. Nhóm thứ nhất được gọi là nhịp nộisinh, có sẵn trong mỗi người từ lúc mới sinh ra. Một nghiên cứu mới nhất cho biết, trong một ngày có khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ nhịp sinh học gây kích ứng giúp con người tăng hiệu suất trong công việc, hoặc ngược lại, gây mệt mỏi và mất khả năng tập trung. Nhịp nội sinh phụ thuộc vào kích thích tố và được quy định bởi tuyến tùng trong não. Vào ban ngày, tuyến này tiết ra hormone có tên serotonin, ảnh hưởng đến khả năng hoạt động tích cực của con người trong trạng thái tỉnh táo. Vào ban đêm, tuyến tùng lại sản xuất hormone melatonin giúp mang lại cho con người một giấc ngủ bình thường.
Nhóm thứ hai - tức nhóm mắc phải - hoàn toàn phụ thuộc vào “cảm ứng ngoại biên” của chúng ta. Trong nhóm này có nhịp ngày, nhịp tuần, nhịp tháng và thậm chí nhịp năm. Chúng phụ thuộc vào điều kiện làm việc và lối sống của con người. Chẳng hạn, nhịp tuần phụ thuộc vào chế độ lao động mà hầu hết mọi người đều phải tuân thủ, thường bao gồm năm ngày làm việc và hai ngày nghỉ cuối tuần. Không phải tình cờ mà vào ngày thứ hai, hầu hết mọi người đều chỉ đạt hiệu suất thấp trong công việc, dù sếp hay ông chủ có tạo điều kiện tốt đến mấy. Ấy là vì sức ỳ và quán tính của trạng thái nghỉ ngơi tác động lên cơ thể, khó có thể thay đổi ngay. Nhưng từ thứ ba đến thứ năm, nhịp sinh học có thể giúp nâng cao hiệu quả công việc đến mức tối đa. Từ thứ sáu, nhịp sinh học bắt đầu chu kỳ giảm.
Bên cạnh đó, theo một số chuyên gia, con người cũng có phản ứng tự nhiên đối với nhịp sinh học do hoạt động của Mặt trời,
Mặt trăng và các thiên thể khác gây ra. Nhưng loại nhịp sinh học này thuộc nhóm nào - bẩm sinh hay mắc phải - cho đến nay các nhà khoa học vẫn còn tranh luận.
Giáo sư bệnh lý học và sinh lý bệnh học người Nga Sergei Chibisov cho rằng cơ thể con người có liên quan mật thiết với các chu kỳ hoạt động của Mặt trời. Theo ông, số phận của một người (bao gồm cả sức khỏe, nhịp sinh học và nhiều yếu tố khác) phụ thuộc vào điều kiện người đó sinh ra ở thời kỳ tối thiểu hay tối đa trong chu kỳ hoạt động của Mặt trời. Chu kỳ này kéo dài trong khoảng 11 năm. Như vậy, ngay từ khi mới sinh ra, con người đã được “đóng dấu” một lần cho mãi mãi bởi mức độ hoạt động từ tính và các bức xạ vô tuyến do gió mặt trời mang tới. Nhịp sinh học bẩm sinh phụ thuộc vào “con dấu” này.
Nhịp sinh học do Mặt trăng gây ra tác động lên con người còn mạnh hơn nữa, liên quan trực tiếp đến ba loại nhịp sinh học chính - sinh lý, cảm xúc và trí tuệ. Mỗi loại xác định một trong ba dạng hoạt động chủ yếu của con người. Chu kỳ nhịp sinh lý, dài 23 ngày, xác định năng lượng của con người, sức mạnh thể chất, mức năng động và khả năng phối hợp vận động. Chu kỳ nhịp cảm xúc kéo dài 28 ngày - trạng thái của hệ thần kinh và tâm trạng phụ thuộc vào nhịp này. Nhịp trí tuệ có chu kỳ dài nhất - 33 ngày, ảnh hưởng đến năng lực sáng tạo, cá tính, khả năng tập trung suy nghĩ, tư duy logic, sự thông minh nhạy bén... Ba loại nhịp này đều có những nét đặc trưng riêng ở mỗi người, liên quan trực tiếp đến vị trí và chu kỳ của Mặt trăng ở thời điểm người đó sinh ra. Kể từ khi ra đời, theo chu kỳ, nhịp sinh học của mỗi người bắt đầu tăng lên mức 100 đơn vị, sau đó giảm xuống đến -100 rồi tăng lên trở lại đến mức số 0; tiếp theo, bắt đầu một chu kỳ mới. Mỗi nhịp sinh học đều có điểm cực đại (cao) và cực tiểu (thấp), cũng như điểm “khủng hoảng” khi đi qua mốc số 0. Hoàn toàn có thể tính toán nhịp sinh học của mỗi người. Chỉ cần tính xem bao nhiêu ngày đã trôi qua kể từ khi người đó ra đời, bằng cách nhân số năm đã sống với 365 (số ngày của một năm) và cứ mỗi năm nhuận trong khoảng thời gian đó thì cộng thêm một ngày. Lấy tổng này chia cho số ngày của mỗi nhịp sinh học, kết quả là một số nguyên không dư (số dư bằng 0) hoặc có dư. Chính số dư này cho ta biết mỗi nhịp sinh học đang ở giai đoạn nào. Cần lưu ý rằng trong nửa đầu của chu kỳ, nhịp tương ứng với mức độ cao, ở nửa sau - mức thấp. Giả sử một người sinh ngày 8/8/1973 thì đến 22/5/2011, người đó đã sống được 13.801 ngày. Lấy con số này chia cho 23 (số ngày của nhịp sinh lý), kết quả là 600 dư 1. Như vậy vào ngày 22/5/2011, người đó ở vào thời điểm bắt đầu một chu kỳ nhịp sinh lý mới, chu kỳ thứ 601. Đây là một ngày không tốt của chu kỳ vì được đánh dấu ở mốc số 0, nhưng trong vòng 11,5 ngày sau đó là giai đoạn tích cực của nhịp sinh học. 13/6/2011 sẽ là ngày “khủng hoảng”. Nhưng ngày tồi tệ nhất sẽ là ngày 18/6 và từ ngày 24/6 thì bắt đầu chu kỳ mới.
Nhịp sinh học và tai nạn lao động
Các nhà khoa học khẳng định, tình trạng chức năng của cơ thể người phụ thuộc trực tiếp vào mức độ cao thấp của nhịp sinh học ở từng giai đoạn trong chu kỳ. Trong nửa đầu của chu kỳ nhịp sinh lý, con người đầy năng lượng và có thể đạt được kết quả tốt hơn trong công việc của mình, còn trong nửa thứ hai, như một quy luật, sự lười biếng, uể oải ngự trị. Ở hai loại nhịp sinh học khác, tình hình cũng tương tự. Tuy nhiên, nửa trên và nửa dưới của mỗi chu kỳ không “khủng khiếp” như những ngày “khủng hoảng”, khi đường cong của đồ thị thể hiện chu kỳ đi qua mốc số 0. Các nhà khoa học cho rằng trong những ngày “khủng hoảng”, hành vi của con người rất khác với lúc bình thường. Chẳng hạn, vào những ngày đó của chu kỳ nhịp cảm xúc, một người đàn ông lịch sự có thể trở nên cáu gắt và cư xử thô lỗ với người khác; trong ngày “khủng hoảng” của chu kỳ nhịp sinh lý, những người sống động tràn đầy năng lượng và luôn vui vẻ bỗng trở nên chậm chạp và thường xuyên cảm thấy mệt mỏi.
Các chuyên gia đã phát hiện ra rằng những ngày “khủng hoảng” trong chu kỳ của cả ba loại nhịp sinh học này không
 |
chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm sinh lý của con người khác mà còn gây nhiều phiền toái khác. Tiến sĩ toán - lý Serik Mazhkenov của Nga từng tiến hành một nghiên cứu tại một công ty thăm dò dầu khí. Ông nghiên cứu kỹ tài liệu lưu trữ của bộ phận nhân sự về tai nạn lao động và so sánh biểu đồ chu kỳ nhịp sinh học của từng nạn nhân. Kết quả thật đáng kinh ngạc: 70% số vụ tai nạn xảy ra với người lao động trong những ngày khi mà một trong những nhịp sinh học của người đó đi qua mốc số 0. Trong phần lớn các trường hợp, các sự kiện đáng tiếc thường xảy ra trong những ngày “khủng hoảng” của chu trình sinh lý. Từ đó, tiến sĩ Mazhkenov đề nghị các công ty lưu ý xem xét các dữ liệu về nhịp sinh học của người lao động khi tổ chức sắp xếp công việc. Mỗi nhân viên hoặc công nhân cần tính toán chu kỳ nhịp sinh học của bản thân và trong những ngày “khủng hoảng” phải được hưởng chế độ lao động tối thiểu: chuyển sang làm việc nhẹ hơn hoặc được nghỉ rồi sau đó làm bù. Theo Mazhkenov, chỉ cần tính đến các đặc điểm nhịp sinh học của từng nhân viên, các công ty có sử dụng lao động chân tay có thể giảm được 29% số vụ tai nạn. Tuy nhiên, không phải tất cả những người đứng đầu các công ty, xí nghiệp... đều muốn tiến hành những cuộc điều tra như vậy đối với mọi nhân viên, trước hết là vì họ phần lớn thiếu kiến thức cần thiết về nhịp sinh học, sau nữa là vì ngại phiền phức và cho rằng vạn nhất có xảy ra điều gì tồi tệ thì đã có hãng bảo hiểm lo giùm. Như vậy, khi cả người lao động lẫn người sử dụng lao động đều không biết gì về nhịp sinh học thì số lượng các vụ tai nạn lao động vẫn không được hạn chế. Thật đáng tiếc!
|