 |
Căn bệnh trầm cảm cũng có thể bị lây nhiễm. |
Một chuyên gia nổi tiếng từng phát biểu: "Mỗi người có thể bị quẫn trí theo nhiều cách khác nhau. Chỉ có các căn bệnh như cúm mới khiến người ta bị lây nhiễm hàng loạt". Nhận định trên chưa hoàn toàn chính xác: Con người không chỉ bị lây nhiễm bằng virus, mà còn bị lan truyền những chứng rối loạn tâm thần, hay thậm chí cả các trường hợp bất hạnh dẫn tới cái chết...
Bệnh dịch tâm lý
Tháng 6/1962, giới chủ đã buộc phải đóng cửa một nhà máy dệt tại Strongwill (Mỹ) vì một căn bệnh bất ngờ và khá kỳ lạ lan truyền trong công nhân. Thoạt đầu, có chừng chục phụ nữ và một người đàn ông phải vào viện vì các triệu chứng buồn nôn và phát ban. Các bác sĩ nghi ngờ thủ phạm là một loại sâu độc nào đó có trong những kiện hàng len được gửi tới từ Anh. Nhà máy đã phải đóng cửa, sau khi tiếp tục có tới 62 công nhân khác phải vào viện với các triệu chứng tương tự, cộng thêm với những cơn hoảng loạn liên tục. Các nhà côn trùng học đã lục soát khắp nhà máy nhưng không phát hiện được bất cứ dấu vết nào của loại sâu bọ đáng ngờ đó. Trường hợp trên được đánh giá là một chứng bệnh điên hàng loạt, hậu quả của việc lan truyền về tâm lý hay tự kỷ ám thị.
Về sau, người ta còn ghi nhận và phân tích được thêm 23 trường hợp lây kiểu này - thường là những dạng biểu hiện tập thể các triệu chứng bệnh, sau khi có một vài thành viên của tập thể đó cho rằng đang có một chứng bệnh kỳ lạ lan truyền. Phương tiện để lan truyền những lây nhiễm tâm lý tương tự chính là các lời đồn đại, trong một tập thể cách biệt nào đó, thông thường là các nhà tù, bệnh viện hay đơn vị quân đội.
Tuy nhiên, cũng có những bệnh dịch tâm lý có quy mô khá lớn. Ví dụ sau cái chết của công nương Diana năm 1997, người ta đã ghi nhận về một bệnh dịch ảo giác: Những người ái mộ Diana thi nhau khẳng định về việc linh hồn bà đã về thăm họ. Theo đánh giá, tin đồn về những người ngoài trái đất và những hiện tượng siêu nhiên đều lan truyền bằng lây nhiễm tâm lý kiểu này và người ta hay nhìn thấy những sự kiện kỳ lạ trên mỗi khi báo chí viết nhiều về chúng.
Một ví dụ điển hình của việc lây nhiễm tâm lý chính là hành vi của những người tham gia thị trường chứng khoán. Cơn dịch hoảng hốt về tài chính chỉ trong vài giờ có thể bao trùm khắp các quốc gia, lục địa và trở thành một bệnh dịch toàn cầu. Tương tự như thị hiếu mua hàng hoá: người ta có thể đổ xô đi mua một loại hàng hoá nào đó, như xăng dầu hay truyện Harry Potter...
Hiện tượng Verter
Vào năm 1774, Goethe (đại thi hào người Đức) cho ra đời cuốn tiểu thuyết Những nỗi đau của chàng Verter trẻ tuổi, trong đó nhân vật chính cuối cùng dùng súng tự sát vì thất tình. Cuốn sách không những làm cho tác giả trở nên nổi tiếng mà còn gây ra một làn sóng tự sát theo cách như vậy trên khắp châu Âu. Chính quyền một số nước thậm chí đã cấm lưu hành cuốn tiểu thuyết trên. Tại nước Nga, tác phẩm Liza nghèo khổ cũng đã gây ra một tác động tương tự, nhưng với quy mô nhỏ hơn. Một loạt thiếu nữ trẻ đã nhảy xuống hồ tự vẫn sau khi đọc tác phẩm này.
Năm 1981, tại Đức phát sóng rộng rãi một bộ phim truyện, trong đó mô tả chi tiết về những nỗi bất hạnh của một chàng trai trẻ, người sau đó đã tự sát bằng cách lao mình vào gầm xe lửa. Trong vòng 2 tháng sau khi bộ phim được trình chiếu, số lượng các vụ tự sát trên đường sắt tăng lên gần gấp đôi, riêng tỷ lệ của những thanh niên trong độ tuổi 15-19 tăng gấp 3. Lần "tái xuất" của bộ phim này hai năm sau cũng khiến cho tỷ lệ tự sát trên đường sắt tăng 20%.
Ngày nay, hiện tượng Verter kiểu trên đã được các nhà xã hội học chú ý nghiên cứu. Giáo sư David Philips tại Đại học California (San Diego, Mỹ) đã nghiên cứu số liệu thống kê các vụ tự sát tại Mỹ hơn 20 năm qua và phát hiện ra rằng, trong vòng 2 tháng sau khi báo chí cho đăng những tít lớn giật gân về một vụ tự sát nào đó, trung bình sẽ tăng thêm 58 vụ tự tử. Mức độ tăng thấy rõ nhất tại những bang mà thông tin về trường hợp tự sát được phổ biến rộng rãi.
Philips giải thích, một số người có thần kinh không ổn định khi đọc được về vụ tự sát của ai đó sẽ cố gắng hành động giống như anh ta. Tất nhiên, cũng phải tính đến hiện tượng, tại một thời điểm và địa phương nhất định, có nhiều yếu tố giống nhau (ví dụ như kinh tế suy thoái hay bão từ) có thể tác động lên nhiều người khiến họ tự tử. Nhưng có điều chắc chắn là nạn tự sát phụ thuộc trực tiếp vào mức độ thông tin của các phương tiện truyền thông đại chúng về sự kiện này. Tại các khu vực lân cận có các điều kiện sống tương tự, nhưng báo chí không công bố thông tin về vụ tự sát, tỷ lệ tự sát không được ghi nhận là tăng đột biến.
Còn có một giải thích nữa cho hiện tượng Verter, đó là giả thuyết về "sự mất mát nặng nề". Khi báo chí thi nhau đưa tin về vụ tự sát của một nhân vật nổi tiếng và được nhiều người kính trọng, nhiều độc giả sẽ cảm thấy sốc và đau buồn thực sự. Tất nhiên, cái chết của một diễn viên hay vận động viên nổi tiếng nào đó thường không tác động mạnh bằng những điều kiện của từng cá nhân đối với động cơ tự sát. Nhưng thông tin về hành vi của con người nổi tiếng đó sẽ là một "đòn khích lệ" đối với những người đang trong trạng thái tồi tệ, không tìm được lối thoát. Đặc biệt có hiệu quả là những thông tin trong đó mô tả tỉ mỉ về nguyên nhân và phương pháp tự sát. Năm 1999, một phóng viên truyền hình của Canada treo cổ tự tử bằng sợi dây lưng. Sau khi các phương tiện truyền thông đưa tin rộng khắp, tỷ lệ tự sát bằng cách treo cổ tăng 70%.
 |
Nữ diễn viên Marlene Dietrich cũng bị mắc hội chứng lây nhiễm tâm lý? |
Các phương tiện truyền thông đại chúng có khả năng gây ra nạn dịch tự sát, nhưng cũng có thể chặn đứng chúng. Hiệp hội nghiên cứu nạn tự sát của Áo đã tiến hành một chiến dịch vận động quy mô lớn trong đội ngũ nhà báo, nhằm thay đổi cách truyền đạt những thông tin tương tự trên các phương tiện truyền thông.
Lúc các thông tin không còn chứa đựng tính "giật gân gây chấn động", tỷ lệ tự sát tại nước này đã giảm 75%.
Khi nghiên cứu hậu quả các thông tin về tự sát, giáo sư David Philips còn phát hiện ra một hiện tượng khác. Khi báo chí cho đăng tải những bài báo về các vụ tự sát, số lượng vụ tai nạn hàng không và đường bộ gây chết người cũng tăng nhanh. Ngay cả mối liên hệ cụ thể cũng mang tính đặc trưng. Câu chuyện về những vụ tự sát riêng lẻ thường làm tăng các tai nạn giao thông trong đó có 1 người chết, hay những vụ tai nạn máy bay tư nhân loại một người lái. Trong khi thông tin về những vụ giết người kết hợp với tự sát lại làm tăng số tai nạn có nhiều nạn nhân.
Nhà nghiên cứu này nhận định rất có thể đa số những vụ tai nạn này là hành động tự sát được ngụy trang dưới một trường hợp rủi ro nào đó. "Diễn viên chính" ở đây là những người muốn tự sát nhưng không muốn bị mất danh tiếng, hay muốn cho người thân thích có khả năng nhận được tiền bảo hiểm. Cũng có thể phi công hay tài xế không nghĩ đến hay lập kế hoạch trước cho vụ này, nhưng dưới ảnh hưởng của thông tin về vụ tự sát, anh ta có thể mắc một sai lầm định mệnh mà không nhận thấy: ví dụ như trong thời điểm cất cánh lại gạt cần lái xuống, hay nhầm chân phanh thành chân ga.
Cơ chế tác động kiểu trên thường được giới khoa học gọi là "bắt chước không nhận thức" hay "lây nhiễm tâm lý". Hiện tượng này thường xảy ra nhiều hơn khi "trường hợp mẫu" có điểm chung nào đó với người bắt chước. Philips đã chứng minh được điều này sau khi nghiên cứu các hồ sơ tai nạn giao thông tại Mỹ. Ông so sánh độ tuổi của những người tự sát được báo chí đăng tải với độ tuổi các tài xế chết vì tai nạn ngay sau thời điểm báo chí đưa tin. Nếu như báo chí mô tả vụ tự sát của một người trẻ tuổi, chính các tài xế trẻ thường xuyên đâm vào cây, cột hay lao xuống mương, nạn nhân của các tai nạn giao thông phần nhiều cũng thuộc độ tuổi đó.
Bạo lực và tự sát
Cơ chế lây nhiễm tâm lý có tác động không chỉ trong mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp đến hành động tự sát, mà còn đối với nạn bạo lực nói chung. Về những vụ sát nhân theo kiểu bắt chước, công luận đã nói đến khá nhiều từ khi xuất hiện điện ảnh và truyền hình, nơi thường xuyên trình chiếu những cảnh bạo lực. Đơn cử: năm 1993 tại Texas (Mỹ), một người đàn ông nhảy từ cabin chiếc xe tải và xả súng qua cửa sổ một quán cà phê đông đúc. Trước khi cảnh sát tới hiện trường, hắn đã kịp giết 22 người rồi dùng súng tự sát. Trong túi của hung thủ, cảnh sát tìm thấy cuống vé bộ phim Vua đánh cá có chiếu cảnh bạo lực tương tự.
Chính Philips cũng là người đã xác định được mối liên hệ giữa thông tin về bạo lực và hiện tượng tăng các trường hợp bạo lực trên thực tế bằng phương pháp thống kê. Lần này, ông phân tích hậu quả các thông báo về những trận đấu quyền anh. Quyền anh nhà nghề là một trong không nhiều môn thi đấu bạo lực không những được xã hội chấp nhận mà còn ủng hộ. Những trận đấu của các võ sĩ quyền anh hạng nặng thường gây sự chú ý và được truyền hình tường thuật rộng rãi. Philips đã phân tích con số thống kê các vụ sát nhân trong thời kỳ từ 1973 đến 1978. Ông nhận thấy, trong thời gian khoảng 10 ngày sau khi một võ sĩ da đen bị đánh gục trên võ đài, con số nạn nhân trong các vụ giết người là thanh niên da đen tăng lên đáng kể. Còn nếu võ sĩ da trắng thua, tỉ lệ người da trắng bị sát hại lại tăng lên.
Đôi khi, những sự kiện bi kịch không được lặp lại ngay lập tức, mà sau nhiều năm, với sự trùng hợp đáng ngạc nhiên về ngày tháng hay độ tuổi của những người có liên quan. Hiện tượng này được gọi là "hội chứng lễ kỷ niệm hằng năm": sau sự đột tử bất hạnh của một căn bệnh nặng nào đó của cha mẹ, những đứa con họ thường bị bệnh, gặp tai nạn hay rối loạn tâm lý vào đúng ngày xảy ra sự kiện trên trong những năm tiếp theo.
Bác sĩ Josephina Hilgard suốt vài năm liền đã nghiên cứu hồ sơ của các bệnh nhân từng phải vào Viện tâm thần California. Trong hơn 8.000 hồ sơ, bà chỉ chọn lựa những ai phải vào viện sau lễ cưới hay ngày sinh của con, hoặc những người bị mất cha mẹ từ nhỏ. Kết quả phân tích số liệu thống kê cho thấy, độ tuổi bất ngờ xuất hiện bệnh của người lớn thường trùng hợp với độ tuổi khi cha mẹ họ đã mắc bệnh nặng hoặc từ trần. Những trùng hợp tương tự kiểu trên không chỉ hạn chế trong phạm vi các bệnh tâm thần, mà còn liên quan đến bệnh ung thư hay những trường hợp bất hạnh khác. Ví dụ bệnh nhân thường mắc bệnh vào đúng độ tuổi cha mẹ hay ông bà họ từng bị. Các chuyên gia tâm lý giải thích đó là tính "trung thành ẩn" hay "sự tương đồng không nhận thức" với một trong các thành viên gia đình.
Ngoài ngày kỷ niệm chuyện buồn hằng năm, những sự kiện vui - như đám cưới hay nhận giải thưởng - cũng thường được đánh dấu bằng những cái chết bất ngờ. Người già thường có khuynh hướng chờ đến ngày lễ của mình, đám cưới của cháu hay một ngày lễ nào đó của gia đình để tạm biệt tất cả và... ra đi. Marlene Dietrich từ trần ngày 6/5/1992, ngay trước lễ khai mạc liên hoan điện ảnh Cannes dành riêng để ghi nhận tài năng của bà. Các cựu tổng thống Mỹ Thomas Jefferson và John Adams đều chết vào ngày 4/7/1862, đúng dịp kỷ niệm ngày tuyên ngôn độc lập Mỹ ra đời mà cả hai đã tham gia tích cực.
Nguồn Popular Science |