CHUYÊN MỤC
ĐỒNG TÂM
LỊCH ÂM DƯƠNG
LIÊN KẾT WEBSITE
Thông tin khoa học cơ bản » Sinh Học  » Chi tiết
 
Những tín hiệu bí mật của mồ hôi người
Một số nhà khoa học lo ngại rằng nếu ai đó tổng hợp được những pheromone gây cảm giác sợ hãi, anh ta có thể khiến một đội quân hùng hậu chạy tán loạn như đám bò điên mà không cần nổ súng.

Nếu nhiều phụ nữ sống với nhau trong một thời gian dài, chu kỳ kinh nguyệt của họ sẽ dần trở nên đồng nhất. Đó là do các pheromone trong mồ hôi của phụ nữ có khả năng đồng bộ hóa chu kỳ kinh nguyệt của người cùng giới.

Mồ hôi do con người tiết ra còn chứa đựng nhiều bí ẩn. Ảnh:Liquid.

Đã bao giờ bạn đột nhiên cảm thấy một cảm giác thân thuộc và ấm áp khi gặp ai đó lần đầu tiên? Nếu là người thích bay lượn, đã bao giờ bạn bỗng dưng có cảm giác sợ máy bay? Đó là những cảm giác thoáng qua, song phần lớn chúng ta không thể giải thích được. Sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà khoa học đã tìm ra lời giải đáp cho những phản ứng có vẻ phi lý này của con người.

Chúng chính là phản ứng đối với các tín hiệu bí mật bên trong mồ hôi của người khác. Tín hiệu do những hóa chất có tên chung là pheromone phát đi. Pheromone là chủ đề tương đối nhạy cảm trong sinh học. Mặc dù chúng tồn tại trong cơ thể nhiều loài sinh vật sống, từ côn trùng cho tới động vật có vú, song tới nay số lượng nghiên cứu về pheromone ở người chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Vì thế trong một thời gian dài, chúng ta chỉ có những hiểu biết mơ hồ về pheromone ở người.

Tình hình đã thay đổi trong vài năm gần đây. Các kỹ thuật chụp ảnh não hiện đại cho thấy pheromone của động vật hoạt động không hoàn toàn giống với suy nghĩ của chúng ta. Một số nhà khoa học cho rằng con người cũng có thể tạo ra và phản ứng với các pheromone. Theo họ không nên đặt câu hỏi pheromone của con người có tồn tại hay không, thay vào đó nên bắt đầu tìm hiểu xem chúng tác động tới hành vi của con người như thế nào.

Pheromone, xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1959, là thuật ngữ dành cho các hóa chất mà động vật tiết ra để kích thích các hành vi mang tính bản năng của đồng loại. Chẳng hạn, bướm đêm cái giải phóng pheromone để mời gọi bạn tình. Khi các nhà khoa học tìm thấy pheromone ở động vật, họ nhận ra chức năng của chúng rất đa dạng chứ không chỉ bó hẹp trong việc kích thích các hành vi mang tính bản năng của những con cùng loại.

Kể từ đó định nghĩa pheromone trở thành chủ đề gây tranh cãi. Định nghĩa sau được chấp nhận nhiều nhất: Pheromone là các hóa chất có chức năng phát đi một tín hiệu có lợi cho cả bên gửi và bên nhận trên phương diện tiến hóa.

Cho dù chúng ta chấp nhận định nghĩa nào thì bản chất của các pheromone cũng không thay đổi. Chúng là một phần quan trọng trong thế giới sinh vật sống. Động vật sử dụng pheromone để phát các thông tin về bản thân (như giới tính và nhu cầu giao phối), thay đổi sinh lý của con khác (như kích thích sự rụng trứng) và tác động trực tiếp tới hành vi của đồng loại (cảnh báo về mối nguy hiểm, mời gọi giao phối). Nhiều loài động vật có vú như chuột và hươu thường tiết ra pheromone để thông báo các con khác trong đàn về sự xuất hiện của kẻ thù.

Trong suốt nhiều năm, người ta cho rằng con người không tạo ra và cũng không phản ứng với pheromone, một phần là do nhiều nhà khoa học không muốn thừa nhận rằng con người cũng có những hành vi giống hệt động vật. Một lý do nữa là chưa có ai tìm ra cơ chế phản ứng của não người đối với pheromone.

Động vật phát hiện pheromone nhờ hai lỗ nhỏ xíu bên trong khoang mũi. Hai lỗ mũi phụ này chuyển tín hiệu mùi trực tiếp lên não. Mặc dù con người sở hữu một cơ quan có chức năng giống cặp lỗ mũi phụ của động vật, song chúng ta lại không có các tế bào thần kinh kết nối cơ quan đó với não. Chúng ta cũng có các gene quy định hoạt động của hai lỗ mũi phụ, song chúng không giúp cơ thể tạo ra những protein cảm thụ có khả năng phát hiện pheromone. Vì thế nhiều nhà sinh học cho rằng con người đã đánh mất khả năng giao tiếp bằng pheromone trong một giai đoạn nào đó của quá trình tiến hóa.

Nhưng kết luận này không thể ngăn cản nhiều nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu về pheromone ở người. Năm 1971, Martha McClintock, một chuyên gia tâm lý xã hội thuộc Đại học Harvard (Mỹ), công bố một kết quả nghiên cứu gây chấn động dư luận. Theo báo cáo của bà, nếu nhiều phụ nữ sống cùng nhau trong một thời gian dài, chu kỳ kinh nguyệt của họ sẽ dần dần trở nên giống nhau. Bà cho rằng các pheromone trong mồ hôi của những phụ nữ có khả năng đồng bộ hóa chu kỳ kinh nguyệt của người cùng giới.

Năm 1998, Martha cùng với một cộng sự còn phát hiện thêm rằng mồ hôi của phụ nữ trong các thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh nguyệt có thể làm giảm hoặc kéo dài chu kỳ kinh của phụ nữ khác. Kết luận của Martha trở thành chủ đề gây tranh cãi vì chẳng ai phân lập được những hóa chất đã gây ra hiện tượng đó.

Pheromone có liên quan tới hành vi tìm kiếm bạn tình ở người hay không cũng là một vấn đề gây tranh cãi trong nhiều năm. Trong những năm giữa thập niên 90 của thế kỷ trước, David Berliner và Luis Monti-Bloch – hai giảng viên của Đại học Utah (Mỹ), khẳng định rằng khi con người ngửi thấy mùi của những hoóc môn sinh sản của người khác giới, hai lỗ mũi phụ của chúng ta sẽ phát ra một xung điện. Ở phụ nữ, các tế bào tại khu vực này phản ứng mạnh mẽ đối với các chất chiết suất chứa androstadienone – chất dẫn xuất của hoóc môn giới tính testosterone có trong mồ hôi nam giới. Đàn ông cũng phản ứng tương tự với estratetraenol (có trong nước tiểu của nữ giới).

 

Một số nhà khoa học lo ngại rằng nếu ai đó tổng hợp được những pheromone gây cảm giác sợ hãi, anh ta có thể khiến một đội quân hùng hậu chạy tán loạn như đám bò điên mà không cần nổ súng.

Johan Lundstrom, một chuyên gia tâm lý thần kinh làm việc tại Trung tâm nghiên cứu các giác quan hóa học Monell ở Philadelphia, Mỹ thực hiện nhiều thử nghiệm để chứng minh rằng phụ nữ có thể nhận ra chị hoặc em gái của họ trong một nhóm người thông qua mùi trên cơ thể.

Tuy nhiên, bản thân những phụ nữ đó thừa nhận họ không thể nói rõ sự khác biệt giữa mùi của chị hoặc em gái họ và mùi trên cơ thể người lạ. Nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, bản năng mách bảo phụ nữ chọn người đàn ông tương thích về gene với họ làm bạn đời. Sự tương thích về mặt di truyền thể hiện qua mùi cơ thể của người đàn ông và bằng cách nào đó phụ nữ có khả năng cảm nhận được sự tương thích ấy.

Với Johan, đó là bằng chứng đáng thuyết phục về sự tồn tại của pheromone trên cơ thể người. “Nếu bạn hỏi các nhà khoa học rằng liệu con người có thể phát đi một số dạng thông điệp xã hội thông qua mùi cơ thể hay không, 99,9% họ sẽ trả lời là có. Song nếu bạn hỏi họ rằng con người có pheromone hay không họ sẽ đáp lại rằng điều đó chưa được chứng minh”, ông nói.

Nhưng thực tế sẽ thay đổi sau khi người ta phát hiện một số động vật dùng cơ quan khứu giác thông thường để nhận dạng pheromone thay vì hai lỗ mũi phụ. Chẳng hạn, một thử nghiệm gần đây cho thấy chuột phát hiện các pheromone cảnh báo nguy hiểm của đồng loại nhờ một số tế bào ở đầu mũi được kết nối với hệ thống khứu giác của chúng.

Nhiều nghiên cứu về não cũng làm sống lại giả thiết về việc con người có phản ứng với những pheromone giới tính. Trong hàng loạt thử nghiệm, nhà khoa học thần kinh Ivanka Savic thuộc Viện Karolinska (Thụy Điển) cho một số người tiếp xúc với androstadienone (dẫn xuất của hoóc môn giới tính nam) và dùng kỹ thuật chụp cắt lớp để theo dõi hoạt động của vùng hypothalamus ở phía trước (khu vực xử lý hành vi tình dục trong não).

Ivanka nhận thấy androstadienone kích hoạt vùng hypothalamus ở nam giới đồng tính và phụ nữ bình thường, nhưng không có tác dụng gì đối với phụ nữ đồng tính và nam giới bình thường. Sau đó bà phát hiện ra tác dụng trái ngược khi sử dụng estratetraenol (dẫn xuất của hoóc môn giới tính nữ).

Các nhà khoa học cũng đưa ra bằng chứng về việc con người giải phóng ra những pheromone cảnh báo và cũng có phản ứng đối với chúng. Một số thử nghiệm tâm lý cho thấy chúng ta có thể nhận ra mùi của cảm giác sợ hãi. Năm 1999, nhà tâm lý Denise Chen thuộc Đại học Rice ở thành phố Houston (bang Texas, Mỹ) cho một số tình nguyện viên xem phim hài và phim kinh dị. Sau đó bà yêu cầu một số sinh viên ngửi mồ hôi của những người xem phim. Hơn một nửa số sinh viên nhận ra những người xem phim kinh dị mặc dù họ không nói lên được sự khác biệt giữa các mẫu mồ hôi.

Trong một thí nghiệm tương tự vào năm 2002, tiến sĩ tâm lý Kerstin Ackerl của Đại học Vienna (Áo) chứng minh rằng phụ nữ có khả năng phát hiện mùi sợ hãi. Ông yêu cầu 60 phụ nữ ngửi mùi mồ hôi của những người vừa xem phim kinh dị và phim tâm lý. Phần lớn phụ nữ tham gia thí nghiệm khẳng định mồ hôi của người xem phim kinh dị có mùi mạnh và khó chịu hơn so với mồ hôi của người xem phim tâm lý.

Song những nghiên cứu ấy được tiến hành với số lượng người nhỏ và không đưa ra được các chỉ số định lượng, như mức độ sợ hãi của những người xem phim kinh dị. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Lilianne Mujica-Parodi thuộc Đại học Stony Brook ở New York quyết định tìm hiểu tác động trực tiếp của “mùi sợ hãi” đối với não.

Lilianne và các cộng sự gắn những miếng xốp vào cánh tay và nách của 40 vận động viên nhảy dù trước khi họ thực hiện cú nhảy đầu tiên. Sau khi nhóm tình nguyện viên hoàn thành cú nhảy, các chuyên gia thu hồi những miếng xốp để lấy mồ hôi. Họ cũng tiến hành phỏng vấn để phân loại những người cảm thấy sợ hãi khi lơ lửng trong không trung.

Các nhà khoa học yêu cầu một nhóm tình nguyện viên thứ hai (gồm cả nam và nữ) ngửi các mẫu mồ hôi. Trong lúc nhóm tình nguyện viên ngửi mồ hôi, nhóm nghiên cứu tiến hành quét não họ. Khi mẫu mồ hôi của những người cảm thấy sợ được đưa ra, vùng não xử lý cảm giác sợ hãi của đa số tình nguyện viên vụt sáng hơn mức bình thường. Điều đó cho thấy não có khả năng nhận dạng những hóa chất gây nên cảm giác sợ trong mồ hôi.

Các phát hiện của Johan Lundstrom, Denise Chen, Kerstin Ackerl, Ivanka Savic và Lilianne Mujica-Parodi bổ sung nhiều bằng chứng đáng giá về việc con người cũng tiết ra và có phản ứng với pheromone như động vật. Thế nhưng nhiều người cảm thấy rằng vẫn còn quá sớm để tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến pheromone.

Johan Lundstrom cho rằng bí mật chưa lộ diện hoàn toàn vì thiếu một miếng ghép. “Tôi cho rằng quan sát hoạt động của não là việc làm cần thiết, nhưng chưa đủ. Tôi muốn nhìn thấy phản ứng của con người về mặt hành vi khi chúng ta tiếp xúc với pheromone”, ông nói.

Để đưa ra bằng chứng cụ thể, các nhà khoa học phải nhận dạng, tổng hợp các pheromone và tiến hành thử nghiệm để xem chúng có tạo ra bất kỳ sự thay đổi hành vi nào hay không. Chỉ tới lúc đó chúng ta mới có thể khẳng định chắc chắn rằng, pheromone của người thực sự tồn tại.

Đó là mục tiêu khó khăn. Johan cho biết mồ hôi người chứa hơn 2.000 hợp chất hóa học. “Nhận dạng một trong số những hợp chất ấy giống như việc bịt mắt một ai đó, dắt anh ta vào một nơi có hàng nghìn tấm bia rồi yêu cầu anh ta phi tiêu trúng tâm một tấm bia”, Johan ví von.

Nếu các pheromone của người được nhận diện, giới khoa học sẽ tiếp tục tranh cãi về chức năng của chúng. Một số chức năng sẽ được quan tâm hơn cả. Chẳng hạn, bản chất tự nguyện của tình yêu sẽ ra sao nếu các anh chàng bí mật mang lọ xịt pheromone hấp dẫn giới tính tới điểm hẹn hò với các cô gái? Liệu những vũ khí hiện đại của một quân đội có phát huy tác dụng trên chiến trường nếu đối phương sử dụng các pheromone gây nên cảm giác sợ hãi? Một số nhà khoa học lo ngại rằng nếu ai đó tổng hợp được những pheromone gây cảm giác sợ hãi, anh ta có thể khiến một đội quân hùng hậu chạy tán loạn như bò điên mà không cần nổ súng.

Simon Wessely, một chuyên gia tâm thần của Đại học King's College London kiêm cố vấn y tế của quân đội Anh, khẳng định rằng giả thiết trên khó trở thành hiện thực về mặt khoa học. Ông cho biết, trong thập niên 60 một nhóm nghiên cứu của Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ) đã tiêm adrenalin vào cơ thể một số người để gây nên các triệu chứng sợ hãi. Tuy nhiên, những người này chẳng hề cảm thấy sợ khi đối mặt với các tình huống dễ chịu. Điều đó cho thấy môi trường xung quanh có vai trò quan trọng.

Tương tự, Johan cũng nhận thấy phản ứng của phụ nữ đối với androstadienone chỉ trở nên đáng tin cậy nếu có một người đàn ông trong phòng thí nghiệm. Do vậy, có vẻ như chúng ta hoàn toàn có lý khi nói rằng: những tác động do pheromone gây ra tương đối yếu và bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố bên ngoài.

 

Các thông tin cùng loại này
» Đột phá trong nghiên cứu (2013-05-10 12:08:35)
» Chìa khóa bất tử con người nằm ở loài giun? (2013-05-10 12:04:09)
» Phát hiện "chìa khóa" cải lão hoàn đồng (2013-05-10 12:01:38)
» Tính cách thay đổi sau khi ghép nội tạng (2013-05-10 11:20:06)
» Giác quan thứ 6 kỳ bí hay chuyện thường? (2012-12-07 09:58:10)
» Cái chết bí ẩn của các nhà nghiên cứu UFO (2012-12-05 22:34:58)
» Loài người đang ngày càng ngu đi? (2012-12-05 15:47:19)
» Vũ trụ có mùi gì? (2012-11-22 17:08:00)
» Phát hiện một loại mùi mới (2012-11-22 17:06:09)
» Con người có thể ngửi mùi của sợ hãi (2012-11-07 16:49:59)
» Bộ nhớ kỳ lạ của nấm nhầy (2012-10-20 10:33:09)
» Dự đoán hình ảnh loài người 1000 năm sau (2012-10-17 15:33:57)
» Khả năng thôi miên của chồn (2012-10-15 11:43:33)
» Loài nhện trở nên thiện chiến sau khi bị... "thiến" (2012-10-06 11:19:22)
» Thính lực siêu phàm của cú (2012-10-06 11:08:55)
» Cà độc dược có thể khiến người khỏa thân (2012-09-29 11:56:46)
» Điểm tương đồng giữa hoạt động của não người và ong (2012-09-29 11:30:05)
» Yêu thương để trường thọ (2012-09-28 10:27:45)
» Cái giá của trường thọ (2012-09-28 10:23:10)
» Tự sinh sản (2012-09-14 10:35:00)
  1  2 3 4 5 6 7 8 9  Trang Tiếp
 

CÔNG TY KHOA HỌC NĂNG LƯỢNG TÂM THỨC TOTHA
245 Trịnh Đình Trọng, P.Hòa Thạnh, Q.Tân Phú, TP.HCM - ĐT0909777929 - 0908883380 - 0909631630 Email:  tothaho@gmail.com, phapluantotha@gmail.com

 

Copright 2009 www.totha.vn,
All rights reserved

Lượt truy cập: 16178705
Đang online : 21